KINH LẬU TẬN

中 阿 含 經
KINH TRUNG A HÀM
Hán Dịch: Phật Ðà Da Xá & Trúc Phật Niệm,
Việt Dịch & Hiệu Chú: Thích Tuệ Sỹ

http://www.budsas.org/uni/u-kinh-ahamtrung/trungaham010.htm

1. PHẨM BẢY PHÁP

10. KINH LẬU TẬN[1]

Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật du hóa ở Câu-lâu-sấu[02], tại đô ấp Kiếm-ma-sắt-đàm, đô ấp của Câu-lâu[03].

Bấy giờ Đức Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Do tri, do kiến[04] mà các lậu bị tận diệt chớ không phải do không tri, không kiến.

“Sao gọi là do tri, do kiến mà các lậu bị tận diệt? Đó là do có chánh tư duy và không chánh tư duy[05]. Nếu không chánh tư duy thì dục lậu chưa sanh sẽ sanh; đã phát sanh liền tăng trưởng; hữu lậu, vô minh lậu chưa sanh sẽ phát sanh; đã phát sanh liền tăng trưởng[06]. Nếu có chánh tư duy thì dục lạâu chưa sanh sẽ không sanh, đã sanh liền tiêu diệt. Hữu lậu và vô minh lậu chưa sanh sẽ không sanh; đã sanh liền tiêu diệt.

“Những người phàm phu ngu si, không được nghe chánh pháp, không được gặp bậc chơn tri thức, không biết thánh pháp, không điều ngự thánh pháp[07] không biết pháp như thật. Nếu không có chánh tư duy, dục lậu chưa sanh sẽ phát sanh, đã phát sanh liền tăng trưởng; hữu lậu và vô minh lậu chưa sanh sẽ phát sanh; đã phát sanh liền tăng trưởng. Nếu có chánh tư duy, dục lậu chưa sanh sẽ không phát sanh, đã phát sanh liền tiêu diệt; hữu lậu và vô minh lậu chưa sanh sẽ không phát sanh; đã phát sanh liền tiêu diệt. Vì không biết pháp như thật do đó pháp không nên niệm lại niệm, pháp nên niệm lại không niệm. Vì pháp không nên niệm lại niệm, pháp nên niệm lại không niệm, nên dục lậu chưa sanh sẽ phát sanh, đã sanh liền tăng trưởng; hữu lậu và vô minh lậu chưa sanh liền phát sanh, đã sanh liền tăng trưởng.

“Thánh đệ tử đa văn được nghe Thánh pháp, được gặp bậc chơn tri thức, được điều ngự theo Thánh pháp, biết pháp như thật, nhưng nếu không có chánh tư duy, thì dục lậu chưa sanh sẽ phát sanh, đã sanh liền tăng trưởng; hữu lậu và vô minh lậu chưa sanh liền phát sanh, đã sanh liền tăng trưởng. Nếu có chánh tư duy, dục lậu chưa sanh sẽ không sanh, đã sanh liền tiêu diệt; hữu lậu và vô minh lậu chưa sanh sẽ không phát sanh, đã sanh liền tiêu diệt. Sau khi biết pháp như thật, pháp không nên niệm thì không niệm, pháp nên niệm liền niệm. Vì không niệm pháp không nên niệm và pháp nên niệm liền niệm, nên dục lậu chưa sanh sẽ không phát sanh, đã sanh liền tiêu diệt; hữu lậu và vô minh lậu chưa sanh sẽ không phát sanh, đã sanh liền tiêu diệt.

“Có bảy sự đoạn trừ lậu, phiền não, pháp ưu sầu. Những gì là bảy? Có lậu được đoạn do kiến, có lậu được đoạn do hộ, có lậu được đoạn do ly, có lậu được đoạn do dụng, có lậu được đoạn do nhẫn, có lậu được đoạn do trừ, có lậu được đoạn do tư duy.

“Thế nào là lậu được đoạn do kiến[08]? Kẻ phàm phu không được nghe chánh pháp, không gặp bậc chơn trí thức, không biết Thánh pháp, không điều ngự Thánh pháp, không biết như thật về pháp, không có chánh tư duy nên suy nghĩ thế này: ‘Ta có đời quá khứ?[09] Ta không có đời quá khứ ? Do nhân duyên gì ta có đời quá khứ? Đời quá khứ ta như thế nào? Ta có đời vị lai? Ta không có đời vị lai? Do nhân duyên gì ta có đời vị lai? Ta có đời vị lai như thế nào?’ Người ấy hoài nghi về mình rằng[10]: “Thân ta là gì, nó là thế nào?[11] Nay chúng sanh này từ đâu đến, và sẽ đi về đâu? Trước kia do nhân gì mà có, và sẽ do nhân gì mà có?’ Người kia khởi tư duy không chánh như vậy rồi, trong sáu tà kiến, một tà kiến khởi lên cho rằng ‘Quả thật có thần ngã[12]’. Hoặc một tà kiến khởi lên cho rằng ‘Quả thật không có thần ngã’. Hoặc một tà kiến khởi lên cho rằng ‘Thần ngã thấy là thần ngã[13]’. Hoặc một tà kiến khởi lên cho rằng ‘Thần ngã thấy là phi thần ngã[14]’. Hoặc một tà kiến khởi lên cho rằng ‘Chính thần ngã ấy có thể thấy, có thể biết, có thể hành động, có thể sai khiến hành động, có thể đứng dậy, có thể sai khiến đứng dậy, sanh vào nơi này, nơi kia, thọ lãnh thiện báo, ác báo; quyết không từ đâu đến, quyết không phải đã có, quyết không phải sẽ có[15]’. Đó tệ của kiến[16]; bị kiến lay động, bị kết sử của kiến buộc chặt. Kẻ phàm phu ngu si vì thế mà phải chịu cái khổ của sanh, lão, bệnh, tử.

“Đa văn Thánh đệ tử được nghe Thánh pháp, gặp bậc chơn tri thức, được chế ngự theo Thánh pháp, biết pháp như thật, biết như thật về Khổ, biết Khổ tập, biết Khổ diệt và biết như thật Khổ diệt đạo. Biết như thật như thế rồi, ba kết tận trừ. Khi ba kết là thân kiến, giới thủ, và nghi đã trừ hết, chứng quả Tu-đà-hoàn, không còn đọa lạc ác pháp, chắc chắn thăng tiến đến chánh giác, thọ sanh tối đa bảy đời trong thiên thượng và nhân gian. Sau bảy lần qua lại liền chứng đắc Khổ đế. Nếu không có tri kiến thì phát sanh phiền não, ưu sầu, có tri kiến thì không phát sanh phiền não, ưu sầu. Đó là lậu được đoạn trừ do kiến.

“Có lậu được đoạn trừ do hộ[17] là gì? Tỳ-kheo khi mắt thấy sắc, nếu có phòng hộ nhãn căn thì sẽ do chánh tư duy mà quán bất tịnh vậy; nếu không phòng hộ nhãn căn thì sẽ do không chánh tư duy mà quán là tịnh. Nếu không phòng hộ thì sanh phiền não, ưu buồn. Nếu có phòng hộ thì không sanh phiền não, ưu buồn. Cũng vậy, tai, mũi, lưỡi, thân và ý biết pháp mà có phòng hộ ý căn, thì sẽ do chánh tư duy mà quán bất tịnh, nếu không phòng hộ ý căn thì sẽ do không chánh tư duy mà quán là tịnh. Nếu không phòng hộ thì sanh phiền não, ưu buồn, nếu có phòng hộ thì không sanh phiền não, ưu buồn. Đó là có lậu được đoạn trừ do hộ.

“Có lậu được đoạn trừ do ly[18] là gì? Tỳ-kheo khi thấy voi dữ thì nên xa lánh, ngựa dữ, trâu dữ, chó dữ, rắn độc, đường hiểm, nhà tiểu, hầm hố, sông ngòi, suối sâu, vách núi, ác tri thức, ác bằng hữu, ác dị đạo, chòm xóm xấu, nơi cư trú xấu, hoặc Tỳ-kheo ở chung một chỗ với các người phạm hạnh, người không nghi ngờ mà khiến nghi ngờ, là những trường hợp phải nên xa lánh[19]. Hãy nên xa lánh tất cả ác tri thức, ác bằng hữu, ác ngoại đạo, ác dị đạo, chòm xóm xấu, nơi cư trú xấu, hoặc Tỳ-kheo ở chung một chỗ với các người phạm hạnh, người không nghi ngờ mà khiến nghi ngờ. Nếu không xa lánh thì khởi sanh phiền não, ưu sầu. Nếu xa lánh thì không phát sanh phiền não, ưu sầu. Đó là lậu được đoạn trừ do ly.

“Có lậu được đoạn trừ do dụng[20] là gì? Tỳ-kheo khi thọ dụng y phục, chẳng phải để cầu lợi, chẳng phải để kiêu hãnh, chẳng phải để trang sức, mà vì muỗi mòng, gió mưa, lạnh nóng và vì hổ thẹn. Khi thọ dụng đồ ăn uống chẳng phải vì mưu lợi, chẳng phải để trang sức, chẳng phải để mập béo mà vì để làm thân thể ở đời lâu dài, trừ phiền não, ưu buồn, vì để thực hành phạm hạnh, vì muốn để bệnh cũ tiêu trừ đừng sanh bệnh mới, và vì để sống lâu, an ổn, không bệnh hoạn. Khi thọ dụng nhà cửa, phòng xá, giường nệm, ngọa cụ, không phải để kiêu hãnh, chẳng phải để trang sức, mà vì để lúc mệt mỏi có nơi an nghỉ, để được tĩnh tọa. Khi thọ dụng thuốc thang không phải để mưu lợi, không phải để kiêu hãnh, không phải để mập béo, mà chỉ để trừ bệnh hoạn, để điều hòa mạng căn, để an ổn không bệnh. Nếu không thọ dụng những thứ ấy thì sẽ sanh phiền não, sầu lo, còn thọ dụng thì không sanh phiền não sầu lo. Đó là hữu lậu được đoạn trừ do dụng.

“Có lậu được đoạn trừ do nhẫn[21] là gì? Tỳ-kheo tinh tấn đoạn trừ ác, bất thiện, tu tập thiện pháp, nên luôn luôn có ý tưởng trỗi dậy[22], chuyên tâm tinh tấn; thân thể, da, thịt, gân, xương, máu, tủy, thà để khô kiệt tất cả chớ không bỏ tinh tấn. Phải đạt được mục đích mong muốn mới xả sự tinh tấn. Tỳ-kheo lại phải chịu đựng sự đói khát, lạnh nóng, muỗi mòng, ruồi, bọ chét, chấy, dù gió hay nắng bức bách, bị lời dữ, bị đánh đập, cũng đều có thể nhẫn chịu được. Dù thân mạng bệnh tật rất là đau đớn đến nỗi gần muốn tuyệt mạng, và những điều không thể ưa vui được, tất cả đều chịu đựng được. Nếu không nhẫn chịu thì sanh phiền não, ưu buồn, còn nhẫn chịu được thì không sanh phiền não ưu buồn. Đó là lậu được đoạn trừ do nhẫn.

“Có lậu được đoạn trừ do trừ[23] là gì? Tỳ-kheo nếu sanh khởi dục niệm mà không đoạn trừ, hay xả ly; sanh nhuế niệm, hại niệm mà không đoạn trừ xả ly. Nếu không trừ diệt thì sanh khởi phiền não, ưu buồn; còn nếu trừ diệt thì không sanh phiền não, ưu buồn. Đó là lậu được đoạn trừ do trừ.

“Có lậu được đoạn trừ do tư duy[24] là gì? Tỳ-kheo tư duy về giác chi thứ nhất là niệm, y viễn ly, y vô dục, y diệt tận, thẳng đến xuất yếu; trạch pháp, tinh tấn, hỷ, tức[25], định, cho đến tư duy về giác chi thứ bảy là xả, y viễn ly, y vô dục, y diệt tận, thẳng đến xuất yếu; nếu không tư duy thì sanh phiền não, ưu sầu, còn có tư duy thì không sanh phiền não ưu sầu. Đó là lậu được đoạn trừ do tư duy.

“Nếu có Tỳ-kheo nào do kiến mà đoạn trừ các lậu được đoạn trừ bởi kiến; do hộ mà đoạn trừ các lậu được đoạn trừ bởi hộ; do ly mà đoạn trừ các lậu được đoạn trừ bởi ly; do dụng mà đoạn trừ các lậu được đoạn trừ bởi dụng; do nhẫn mà đoạn trừ các lậu được đoạn trừ bởi nhẫn; do trừ mà đoạn trừ các lậu được đoạn trừ bởi trừ; do tư duy mà đoạn trừ các lậu được đoạn trừ bởi tư duy. Đó gọi là Tỳ-kheo đã đoạn trừ tất cả lậu, đã giải trừ các kết phược, có thể bằng chánh trí mà chứng đắc Khổ đế”.

Đức Phật thuyết như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.

-ooOoo-

Chú thích:

[01] Tương đương Pāli: M.2. Sabbāsava-sutta (kinh Nhất thiết lậu). Biệt dịch: No.31. Phật Thuyết Nhất Thiết Lưu Nhiếp Thủ Nhân Kinh, Hậu Hán, An Thế Cao dịch, Đại 1 tr.813; No.125(40.6) Tăng Nhất “Thất Nhật Phẩm, kinh số 6”.
[02] Câu-lâu-sấu 拘 樓 瘦, tức Pāli: Kurusu, giữa những người (nước) Kuru. Nhưng, Pāli, M.2: Sāvatthiyaṃ viharati Jetavane…, trú ở Xá-vệ, trong rừng Jeta… No.1 25 (40.6) cũng vậy, Xá-vệ Kỳ thọ Cấp cô độc viên. No.31, Phật tại Câu-lưu, Tu hội pháp nghị tư duy.
[03] Kiếm-ma-sắt-đàm Câu-lâu đô ấp 劍 磨 瑟 曇 拘 樓 都 邑. Pāli: Kammāsa-dhamma, thủ phủ của những người Kurū. Xem thêm cht.2.
[04] Dĩ tri, dĩ kiến cố 以 知 以見 故. Pāli: jānato… passato āsavānaṃ khayaṃ vadāmi, “Ta nói sự diệt tận của các lậu là do biết, do thấy”.
[05] Chánh tư duy bất chánh tư duy 正 思 惟 不 正 思 惟. No.31. Bổn quán, phi bổn quán 本 觀 非 本 觀, suy niệm đúng đắn và suy niệm không đứng đắn. Pāli: yoniso ca manasikāraṃ ayoniso ca manasikāraṃ, có như lý tác ý và không như lý tác ý (tư niệm có phương pháp và không có phương pháp).
[06] Ba lậu: Dục lậu 欲 漏 (Pāli: kāmāsava): Tất cả phiền não ở cõi Dục, trừ vô minh. Hữu lậu 有 漏 (Pāli: bhavāsava): Tất cả phiền não ở cõi Sắc trừ vô minh. Vô minh lậu 無 明 漏 (Pāli: avijjāsava): Vô minh trong ba cõi. Bản Pàli chỉ nêu tổng quát: anuppannā c’eva āsavā… các lậu chưa sanh.
[07] Hán: bất điều ngự Thánh pháp 不 調 御 聖 法, nghĩa là, không được huấn luyện, hay điều phục theo Thánh pháp.
[08] Lậu tùng kiến đoạn 漏 從 見 斷. Pāli: āsavā dassanā pahātabbā.
[09] Pāli: ahosiṃ nu kho ahaṃ atītam addhānaṃ, “Ta đã hiện hữu trong đời qua khứ?”
[10] Hán: tự nghi 自 疑, ở đây, hoài nghi về sự hiện hữu của mình trong đời hiện tại. Pāli: paccupānnaṃ addhānaṃ kathaṃkathī hoti.
[11] Hán: kỷ thân hà vị thị, vân hà thị 己 身 何 謂 是 云 何 是. Pāli: kin nu kho ‘smi, kathan nu kho ‘smi, “Tại sao ta hiện hữu? Ta hiện hữu như thế nào?”
[12] Hán: chân hữu thần 真 有 神, tự ngã được biết như là linh hồn hay thần hồn. Pāli: atthi me attā ti, “Ta có tự ngã”.
[13] Thần kiến thần 神 見 神. No.31: Tự kế thân thân kiến 自 計 身 身見. Pāli: attanā vā attānaṃ saṃjānāmīti, “do tự mình, tôi biết có tự ngã”.
[14] Hán: thần kiến phi thần 神 見 非 神. Pāli: attanā va anattānaṃ saṃjānāmīti, “Không do tự mình, tôi biết có tự ngã.”
[15] Hán: định vô sở tùng lai…, 定 無 所 從 來. Pāli: so kho pana me ayaṃ attā nicco dhuvo sassato avipariṇāmadhammo sassatisamaṃ tath’eva ṭhassatīti, “Tự ngã của ta ấy thường trụ, kiên cố, vĩnh hằng, không biến dịch, tồn tại vĩnh cửu”.
[16] Hán: kiến chi tệ 見 之 弊… Pāli: Idaṃ vuccati… Diṭṭhigataṃ diṭṭthigahanaṃ diṭṭhikantāraṃ diṭṭhivisūkaṃ diṭṭhivipphanditaṃ diṭṭhisaṃyojanaṃ, “Đó được gọi là sở hành của tà kiến, rừng rậm của tà kiến, đường hiểm của tà kiến, tranh chấp của tà kiến, sự náo động của tà kiến, sự trói buộc của tà kiến”.
[17] Hán: lậu tùng hộ đoạn 漏 從 護 斷. Pāli: āsavā saṃvarā pahātabbā, các lậu được đoạn trừ do phòng hộ.
[18] Hán: lậu tùng ly đoạn 漏 漏 從 離 斷. Pāli: āsavā parivajjanā pahātabbā, các lậu được đoạn trừ do bởi sự tránh xa.
[19] Nghĩa là, tránh xa những Tỳ-kheo nào giao du bạn xấu, v.v…, khiến các bạn đồng tu phải nghi ngờ.
[20] Hán: lậu tùng dụng đoạn 漏 從 用 斷. Pāli: āsavā paṭisevanā pahātabbā, các lậu được đoạn trừ do thọ dụng.
[21] Hán: lậu tùng nhẫn đoạn 漏 從 忍 斷. Pāli: āsavā adhivāsanā pahātabbā, các lậu được đoạn trừ do sức chịu đựng.
[22] Hán: thường hữu khởi tưởng 常 有 起 想, luôn luôn có ý tưởng tỉnh thức, không ham ngủ nghỉ.
[23] Hán: lậu tùng trừ đoạn 漏 從 除 斷. Pāli: āsavā vinodā pahātabbā.
[24] Hán: lậu tùng tư duy đoạn 漏 從 思 惟 斷. Pāli: āsavā bhāvanā pahātabbā, các lậu được đoạn trừ do tu tập.
[25] Hán: tức 息, sự nghỉ ngơi; nhưng thường nói là khinh an. Pāli: passaddhi.

——————————————————–

BẢY PHƯƠNG PHÁP ĐOẠN TRỪ PHIỀN NÃO

Bảy phương pháp phòng hộ và đoạn tận phiền não chính là nội dung tu tập và thành tựu 37 phẩm trợ đạo hay tam học. Khởi đầu con đường tu tập chính là chánh tri kiến, từng bước tu tập vẫn là từng bước đi của chánh tri kiến, thành tựu sự tu tập chính là chánh tri kiến viên mãn . Chính ý nghĩa này mà kinh đã khẳng đinh:” phiền não chỉ được đoạn tận bởi chánh tri kiến .”Một lần nữa nội dung kinh khẳng định: trí tuệ là con đuờng độc nhất, duy nhất để đi ra sinh tử và công phu tu tập giải thoát là tác ý như lí, là thiền quán về sự thật duyên khởi để thấy được cứu cánh vô ngã, vô thường. Bảy phương pháp này luôn phù hợp với mọi người và mọi thời gian.

BẢY PHƯƠNG PHÁP ĐOẠN TRỪ PHIỀN NÃO
( Kinh Lậu Tập, kinh số 10, Trung A Hàm )

Đức Thế Tôn giới thiệu với các Tỷ- kheo về bảy pháp để đoạn trừ lậu hoặc, phiền não.

1.      Phiền não  được đoạn trừ bởi sự thấy biết chân chánh:

Mọi ý niệm về ngã là nguyên nhân, là đầu mối của tử sinh, của khổ đau, bao cuộc luận tranh, đấu tranh, chiến tranh cũng phát xuất từ tư duy hữu ngã này, do thấy ta và người là những hữu thể đơn độc, nên có những tư tưởng như: tài sản ta, ý thức hệ của ta, tôn giáo ta, kiến thức ta, thân sắc ta,…Với chánh tri kiến (thấy biết đúng sự thật), tức tác ý như lý- tư duy đúng qui luật khách quan, thấy rõ tự thân và thế giới là duyên sinh, tương sinh –tương duyên- tương tức, vô ngã, vô thường. Cái này có là cái kia có – cái  này không cái kia không. Tất cả đang xuất hiện dưới dạng đang là (being), nên mọi ý niệm về ngã đều buông rơi. Do chánh tri kiến mà các đệ tử bậc thánh hiểu rõ (liễu tri) Tứ Thánh Đế để đoạn trừ dần năm hạ phần kiết sử và năm thượng phần kiết sử chứng tứ thánh quả ra khỏi sanh tử khổ đau. Ở đây, hành giả cần trao dồi chánh tri kiến thông học kinh –luật –luận, và cả kiến thức phổ thông căn bản cùng tu tập thiền định .

2.      Phiền não được đoạn trừ bởi sự giữ gìn:

Giữ gìn ở đây được hiểu là giữ gìn lục căn. Môt con người còn sống nghiã là chưa chết thì mọi sinh hoạt của nó chính là sự giao tiếp giữa căn và trần. Nhưng khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần; nếu mắt, tai, mũi, lưõi, thân, ý nếu không đuợc giữ gìn thì tham tâm,  sân tâm, si tâm sẽ sinh khởi làm phát sinh các phiền não. Do đó hành giả cần tỉnh giác giữ gìn lục căn khi tiếp xúc với đối tượng để thấy rõ tướng bất tịnh, tướng vô ngã, tướng vô  thường của nó  làm buông rơi mọi ý niệm tham- chấp vì thế mà mọi vướng bận không phát sinh, không sinh khởi. Đây là ý nghĩa của sự giữ gìn giới bổn . Nhờ sự giữ gìn ấy mà phiền não được đoạn trừ.

3.      Phiền não  được đoạn trừ bởi lánh xa:

Xa lánh ở đây chính là xa lánh những điều tiêu cực, không có lợi cho cuộc sống an lạc. Sống ở đời, con người phải đối diện, tiếp xúc, va chạm với những cái mà có thể đưa đến sự nguy hiểm, sự lo lắng, làm phát sinh phiền não như: những thú vật dữ, những nơi nguy hại, những nơi  gây tai tiếng, những hạng người xấu ác, hố sâu, vực thẳm, chất  độc, những tư tưởng cực đoan- đồi truỵ … . Mà ta không thể dùng tri kiến hay phương pháp nào khác để hoá giải nó được; Với các đối tượng trên thì phương thức đối trị tốt nhất để phiền não  không phát sinh là  phương pháp lánh xa – lánh xa thì không sinh phiền não lo buồn .Vì thế mà có thể tu tập giải thoát .

4.      Phiền não được đoạn trừ bởi sự thọ dụng:
Thọ dụng là sử dụng các vật dụng hằng ngày. Một hành giả còn sống trong thế giới đối đãi, nên  còn phải xử dụng các phương tiện sống nhưng sự xử dụng ấy có hỗ trợ cho công phu tu tập giải thoát, thực hành phạm hạnh hay khôn, nó hoàn toàn phụ thuộc vào ý thức của từng cá thể. Nếu thọ dụng y phục, ăn uống, nhà ở, thuốc thang,… với tâm lí hưởng thụ để “vinh thân phì gia ” thì sẽ sinh nhiều phiền não. Vì mọi nhu cầu tham muốn của ta có khi nào là thấy đủ đâu ! con người cứ mãi chạy theo những hình ảnh xa xôi, cuộc đời bắt bóng tìm hình, chỉ gây thêm nhiều khốn đốn. Vì thế nên khi thọ dụng tứ sự  cúng duờng của đàn -việt, hành giả chỉ xem đấy là phương tiện giúp cho thân tâm an ổn tu tập giải thoát và bất cứ ở hoàn cảnh nào hành giả cũng  thực hiện  hạnh thiểu dục, tri túc thì phiền não sẽ không sinh khởi, mà  được đoạn trừ.

5.      Phiền não được đoạn trừ bởi nhẫn nhục:

Nhẫn nhục như chiếc áo giáp giúp hành giả đi qua sanh tử  mà không bị các mũi tên đời gây thương tích. Người có tính nhẫn nhục được xem là người có thắng trí.Vì xã hội vốn đầy dẫy cái bất như  ý, những sự trở ngại, những bức bách của vật lí -sinh lí; và những oan trái bức xúc tâm lí như vu khống, mạ lị, hiểu lầm. Với cacù đối tượng này, người tu cần phải tinh tấn nhẫn nhục để tránh các phiền não phát sanh gây trở ngại công phu tu tập giải thoát. Luôn thấy đó là những nguyên động lực thúc đẩy ta tiến lên trên lộ trình giải thoát. Nếu không nhẫn nhục thì sẽ bị các  mũi tên của đời bắn phá mà kết quả của nó là một chuỗi tâm lí buồn rầu trách móc, oán hận, khổ đau.

6.      Phiền não được đoạn trừ bởi sự trừ  diệt:

Ở đây hành giả không dừng lại ở công việc ngăn ngừa lậu hoặc mà là hoá giải lậu hoặc bằng cách theo dõi tâm để dập tắt các ý niệm của dục, của sân, của hại …và các tâm bất thiện khởi lên từ chúng, khi các niệm của sân, dục … sinh khởi mà biết trừ diệt, biết xả ly thì sẽ không sinh phiền não, nên lậu hoặc được đoạn trừ. Đây là công phu tu tập thiền quán, hành trì tỳ ni, duy trì chánh niệm, có chánh niệm hành giả  biết mình đang làm gì trong hiện tại, và sẽ có những thái độ ứng hợp với chân lí, làm dục lậu, vô minh lậu không phát sinh, dần chúng đi đến đoạn tận. Hành giả sẽ đạt đến trạng thái giả thoát như “ trăng thoát mây che “, tỏa sáng khắp nơi .

7.      Phiền não  được đoạn trừ bởi tư duy:

Tư duy ở đây được hiểu là sự tu tập -tu  tập Thất giác chi -Niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỷ, kinh an, định, xả -thành tựu viên mãn, để viễn ly, ly tham. Tư duy cũng là một chi phần trong Bát thánh đạo, có tư duy chân chánh – tức tư duy về tứ đế, duyên khởi, vô ngã, thì hành giả sẽ không bị ngoại cảnh đánh lừa, không bị các trạng huống vi tế của tâm tham, sân, si làm lệch hướng công phu tu tập giải thoát. Công phu này  thuần thiền quán nhằm cắt đứt các kiết sử và lậu hoặc, đoạn tận khổ đau, chứng Chơn như. Thành tựu bước này là thành tựu 37 phẩm trợ đạo hay Đạo Đế, hành giả đã đi hết con đường mình cần đi, “ những việc cần làm đã làm xong, từ nay không trở lại trạng thái sanh tử luân hồi nữa”

Qua nội dung tu tập trên, chúng ta rút ra một số nhận định:

Phiền não không bao gìờ được đoạn tận bởi người không có chánh tri kiến, chánh tri kiến là yếu tố quan – yêú trên con đường tu học, nó quyết định cho một hành giả sinh tử hay chứng ngộ Niết bàn.Tri kiến  là kết quả của tác ý như lí  đây chính là thắng tri, tuệ tri, liễu tri -trí tuệ, nó là khởi điểm, chung điểm của lộ trình tu tập, nên muốn có tri kiến thì phải kinh qua sáu pháp còn lại. Tác ý như lí là tác nhân phòng hộ phiền não lậu hoặc, chánh tri kiến là tác nhân đoạn tận phiền não.Tà tri kiến không những không phòng hộ và đoạn tận phiền não mà còn là động cơ chính để phiền não chưa sinh khởi được sinh khởi, phiền não đã sinh khởi  tăng trưởng thêm. Tà tri kiến là hệ quả của tác ý không như lí – tức tác ý  hữu ngã, không đúng sự thật duyên sinh vô ngã.

Bảy phương pháp phòng hộ và đoạn tận  phiền não chính là nội dung tu tập và thành tựu 37 phẩm trợ đạo hay tam học. Khởi đầu con đường  tu tập chính là chánh tri kiến, từng bước tu tập vẫn là từng bước đi của chánh tri kiến, thành tựu sự tu tập chính là chánh tri kiến viên mãn . Chính ý nghĩa này mà kinh đã khẳng đinh:” phiền não chỉ được đoạn tận bởi chánh tri kiến .”Một lần nữa nội dung kinh khẳng định:  trí tuệ là con đuờng độc nhất, duy nhất để đi ra sinh tử và công phu tu tập giải thoát là tác ý như  lí, là thiền quán về sự thật duyên khởi để thấy được cứu cánh vô ngã, vô thường. Bảy phương pháp này luôn phù hợp với mọi người và mọi thời gian.

Les commentaires sont fermés.