ĐẠO PHẬT CỨU KHỔ CHÚNG SANH BẰNG CÁCH NÀO ?

Đạo Phật Là Đạo Cứu Khổ

(Pháp Sư Thích Giác Đức)

http://thuongchieu.net/index.php/phapthoai/suong/445-o-pht-cu-kh-chung-sanh-bng-cach-nao-

Người đời thường đặt nghi vấn: Đạo Phật từ bi cứu khổ, sao Tăng Ni chỉ lo tụng niệm và giảng kinh, ít làm việc xã hội từ thiện. Việc xã hội từ thiện thể hiện lòng từ bi cứu khổ rõ nhất, thế mà tại sao chư Tăng Ni ít làm? Vậy, đạo Phật cứu khổ chúng sanh bằng cách nào? Đây là một vấn đề cần phải giảng trạch rõ để chúng ta thực hành lời Phật dạy không sai lệch.

Đức Phật dạy hàng đệ tử phải làm việc lợi tha bằng cách bố thí. Bố thí gồm có tài thí, pháp thí và vô úy thí.

Tài thí là giúp người nghèo đói, tai nạn, thiếu thốn về vật chất. Đem tiền bạc, của cải giúp họ có phương tiện sống qua cơn khó khổ. Đây là việc làm lợi tha của người Phật tử tại gia. Do đó, Phật tử các chùa thường tổ chức Ban Từ Thiện xã hội, chung góp tiền của công sức để giúp đỡ người khó khổ, hoạn nạn như thiên tai bão lụt, bệnh tật, nghèo đói….

Pháp thí là giúp người mê lầm đau khổ bằng chánh pháp. Tăng Ni đem lời Phật dạy trong kinh luận giảng cho họ nghe và hướng dẫn cho họ tu hành để được hết khổ. Đó là việc làm lợi tha của người xuất gia. Muốn thực hiện được điều này, Tăng Ni phải đem hết khả năng của mình để tu học hầu đem chánh pháp giáo hóa cho mọi người hết khổ. Học mới có kiến giải Phật pháp và thế gian pháp để giảng dạy. Tu mới có đạo lực để khắc phục chướng duyên lúc lợi tha, tu mới có đức trí làm chỗ nương cho mọi người.

Phật tử tại gia có phương tiện vật chất để giúp người. Còn tu sĩ xuất gia không thể làm ra tiền của mà chỉ lo tu học đúng chánh pháp và đem chánh pháp bố thí cho mọi người. Bố thí của cải để giúp người hoạn nạn, nghèo đói bớt khổ là bố thí tài của người cư sĩ. Đem chánh pháp giảng dạy cho người nghe tu hành để hết khổ là bố thí pháp của người tu sĩ. Tuy nhiên, trong hai cách cứu khổ trên, cách nào giúp con người dứt khổ vĩnh viễn ?

Ví dụ có cậu thanh niên hút á phiện, lúc mới hút cha cậu khuyên răn mà cậu không bỏ. Cậu hút lâu ngày thành ghiền. Đến cữ không có tiền mua thuốc hút, người cậu quằn quại khổ đau. Người hàng xóm giàu lòng thương cho chút ít tiền để cậu mua thuốc hút. Nhưng ngày khác tới cữ hút, cậu không có tiền mua, cơn ghiền lại nổi lên dày vò làm cậu khổ nữa. Cứ như vậy khổ tiếp tục khổ, không bao giờ hết. Người láng giềng giúp tiền chỉ cứu cậu bớt khổ trong giai đoạn ngắn thôi. Nếu cậu ghiền ấy sớm nghe lời cha, cậu không phút á phiện ngay từ đầu thì bây giờ đầu có khổ.

Thế nên một lời nói phải, nếu chúng ta chịu nghe thì an vui cả cuộc đời. Lời nói không tốn tiền của mà cứu khổ cả đời. Còn tiền của chỉ cứu khổ trong giai đoạn ngắn, không dứt tuyệt khổ. Do đó, đạo Phật đặt vấn đề cứu khổ tinh thần lên trên. Muốn thực hiện cách cứu khổ này cho có kết quả tốt thì Tăng Ni phải thực tu thực học. Bố thí pháp là giúp người hết khổ, nhưng lời pháp nói ra không phải chỉ học thuộc rồi nói suông, mà Tăng Ni phải thực hành được những điều mình nói, thì lời giảng dạy của mình mới có giá trị. Giả sử dạy người bớt tham, sân, si, trước hết mình phải không tham, không sân, không si thì người nghe mới tin, mới ứng dụng tu. Còn nếu nói suông mà không chịu thực hành, dạy người bớt tham mà mình tham nhiều làm sao người nghe tin và làm theo lời dạy của mình? Thế nên, người tu muốn giáo hóa phải có đầy đủ đức hạnh và trí tuệ.

Để thấy rõ tầm quan trọng của việc bố thí pháp, tôi dẫn thêm một ví dụ nữa. Có một bác đạp xích-lô, mỗi ngày đạp còng lưng chỉ kiếm được vài ba chục để nuôi sống gia đình một vợ, hai con. Nhưng bác lỡ ghiền rượu, đạp tới chiều, về ghé quán rượu nhậu hết số tiền đã kiếm được. Ở nhà vợ con đói nheo nhóc, hàng xóm thương tình đem tiền gạo đến giúp, nhưng giúp hoài mà gia đình ấy vẫn khổ vì bệnh ghiền rượu của bác.

Bây giờ có vị tu sĩ đủ trí tuệ và đức hạnh đến dùng lời khuyên nhủ, bác xích-lô nghe, liền bỏ rượu. Từ đó, gia đình bác hết khổ và được hạnh phúc, ấm no. Lời khuyên của vị tu sĩ không tốn tiền của mà đã cứu được gia đình bác xích-lô hết khổ. Do đó, đối với người xuất gia, Đức Phật dạy phải lấy pháp thí làm trên hết. Vì nói một câu đạo lý, người đời nghe hiểu rồi ứng dụng tu thì cả đời sẽ hết khổ.

Trách nhiệm của Tăng Ni chẳng những bố thí pháp mà còn phải bố thí vô úy, tức là cho người sự không sợ hãi. Nếu Tăng Ni mà lo kinh doanh ra tiền của để làm việc tài thí thì không có thì giờ tu học và không đúng với bổn phận của người tu. Còn cư sĩ làm ra tiền của để bố thí thì hợp với đời sống thực tại đang sống và đúng với lời Phật dạy. Hiểu như vậy quí vị mới không thắc mắc: Tại sao Tăng Ni chỉ lo thuyết giảng Phật pháp mà ít lo làm việc từ thiện xã hội?
Đọc lịch sử Đức Phật, chúng ta thấy Ngài chỉ thuyết pháp giáo hóa cứu cho vô số người hết khổ, chớ không cứu khổ bằng phương tiện từ thiện xã hội. Ở đây, tôi tạm chia việc cứu khổ của Ngài ra ba giai đoạn:

Giai đoạn một: Đức Phật dạy cho con người sống đúng tư cách con người là thọ tam quy, giữ năm giới.

Giai đoạn hai: Đức Phật dạy con người tu ngay đời này, giải phiền não, dứt nhân xấu.

Giai đoạn ba: Đức Phật chỉ thẳng cho con người biết mình có Phật tánh, biết rõ đầu mối của sự sanh tử để không còn luân hồi sanh tử khổ đau nữa.

Đầu tiên, quý Phật tử đi chùa là quy y Tam bảo và giữ gìn năm giới cấm. Nếu giữ tròn năm giới cấm thì quý vị sẽ bớt những cái khổ sau đây:

– Giữ giới không sát sanh thì khỏi bị thù oán hoặc tù tội về tội giết người.

– Giữ giới không trộm cắp thì khỏi bị tù đày về tội trộm cắp.

– Giữ giới không tà dâm thì gia đình không bị phá hại hạnh phúc.

– Giữ giới không nói dối thì không mất uy tín với mọi người chung quanh.

– Giữ giới không uống rượu thì không say sưa cuồng loạn, thân ít bệnh, gia đình không xào xáo, không làm rối loạn trật tự xã hội.

Đó là những điều lợi ích cụ thể và thiết thực nhất của đời sống con người. Nếu một gia đình từ cha mẹ cho đến con cái đều giữ năm giới thì gia đình đó hạnh phúc, an vui. Nếu một xóm làng mọi người đều giữ gìn năm giới thì xóm làng đó rất an ninh. Như vậy, đức Phật có cứu con người hết khổ không? Hơn nữa, người giữ giới không sát sanh là biết tôn trọng, không giết hại sinh mạng của người khác.

Giữ giới không trộm cắp là tôn trọng, không cướp tài sản của người khác. Giữ giới không tà dâm là biết tôn trọng, không phá hại hạnh phúc gia đình người khác.

Giữ giới không nói dối là biết tôn trọng lẽ chân thật, không lừa gạt, dối trá mọi người.

Giữ giới không uống rượu là biết trân quý trí tuệ và sức khoẻ của mình, không rủ ren, dắt dẫn người say sưa nghiện ngập. Đó là những lời dạy rất lợi ích và thiết thực cho đời sống của con người. Nếu hiện đời chúng ta giữ tròn năm giới, bảo đảm chúng ta sẽ là người công dân tốt của quốc gia, xã hội. Và, mai kia chúng ta chết thì năm giới ấy là nền tảng để chúng ta sanh trở lại làm người.

Những giới ấy có công dụng như: không sát sanh thì được sống lâu, không trộm cắp thì được của cải sung mãn, không tà dâm thì được thân xinh đẹp, không nói dối thì lời nói lưu loát, nói ra điều gì cũng được người tin, không uống rượu thì được thông minh, sáng suốt. Như vậy, người giữ tròn năm giới của Phật, chẳng những đời này chúng ta là một con người tốt, mà đời sau chúng ta cũng là một con người có đầy đủ những tính tốt và không thiếu những nhu yếu cần thiết trong cuộc sống.

Bước đầu, Phật dạy chúng ta quy y giữ năm giới là đã đem lại lợi ích an vui cho bản thân, cho gia đình, cho xã hội. Đó là Phật đã cứu khổ chúng ta thiết thực. Quy y giữ năm giới là việc làm đầu tiên của người cư sĩ mà cũng là việc làm hết sức hệ trọng.

Tuy nhiên, có người cho rằng tôi tu tâm hoặc tu ở nhà được rồi, cần gì phải đến chùa làm lễ quy y. Nếu là người có tín ngưỡng Phật giáo, nhưng chưa quy y, chưa giữ giới, khi lỡ làm những điều trái với giới cấm thì không sợ tội lỗi. Giả sử ông A chưa giữ năm giới, đi dự tiệc, bạn bè mời ông uống rượu, ông không có cớ từ chối, bạn ép là ông uống; uống lâu ngày thành kẻ nghiện rượu làm khổ gia đình.

Hoặc người buôn bán chưa giữ năm giới, nói dối để bán được hàng lời nhiều, họ cứ nói không ngại, lâu ngày thành thói quen, chuyện gì cũng nói dối nên mất uy tín, nói không ai tin. Như vậy, có tín ngưỡng mà chưa phát nguyện thọ tam quy, giữ năm giới thì tín ngưỡng đó chưa cứu được mình thoát khổ. Nhờ phát nguyện giữ giới, gặp điều sai trái, chúng ta sợ không dám làm, vì đã hứa trước tam bảo rồi nên không dám làm.

Lúc còn nhỏ muốn bỏ một tật xấu, ít khi chúng ta bỏ được. Vì tự hứa với lòng không ai biết, lâu lâu lòng thay đổi nên mình cũng tự tha thứ cho mình. Nếu hứa mà có người làm chứng thì sợ mất uy tín, nên dù lòng có muốn thay đổi cũng không dám đổi. Đó là cái lý do để Phật tử đến trước tượng Phật và chư Tăng phát nguyện quy y giữ giới.

Vì lời hứa này rất trân trọng, đời đời chúng ta không quên, nhờ oai lực đó mà chúng ta giữ được điều tốt để thành người tốt, có ích cho gia đình, cho xã hội. Như vậy, Tăng Ni khuyên mọi người quy y giữ giới là đã thể hiện lòng từ bi cứu khổ của mình rồi.

Sau khi thành đạo, Đức Phật trở về thăm phụ vương và hoàng tộc, Ngài khuyên vua cha và hoàng hậu cùng quyến thuộc quy y giữ năm giới. Về sau, bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề xin xuất gia, Đức Phật không cho. Tôn giả A Nan xin giùm, Phật cũng từ chối. Tôn giả bèn kể công ơn di mẫu đã nuôi dưỡng Thái tử từ lúc sơ sinh cho đến trưởng thành, xin Phật hãy vì công ơn nuôi dưỡng mà chấp nhận cho bà xuất gia. Đức Phật nói Ngài đã đền ơn cho di mẫu rồi. Vì khi Ngài về thăm thành Ca Tỳ La Vệ, Ngài đã hướng dẫn vua cha và di mẫu quy y giữ năm giới. Làm bấy nhiêu đó đã đủ cho Ngài đền ơn sanh thành dưỡng dục rồi.

Việc làm này chúng ta thấy rất nhỏ nhưng sao đủ để đền ơn sanh dưỡng? Đây là vấn đề chúng ta phải hiểu cho tường tận mới biết cái quý của sự tu hành. Phật thành đạo, thấy rõ chúng sanh luân hồi trong sáu nẻo là do hành nghiệp mà sanh. Tạo nghiệp thiện thì sanh vào cõi trời, cõi người hưởng phước an vui. Tạo nghiệp ác thì sanh làm súc sanh, ngạ quỷ…chịu khổ. Năm giới cấm Phật chế ra cho người cư sĩ nhằm ngăn chặn ác nghiệp. Không tạo nghiệp ác thì hiện đời được an vui, đời sau cũng được an vui ít khổ. Như vậy, không đền ơn là gì? Đó là tầm quan trọng của việc quy y giữ giới và cũng là bước đầu của từ bi cứu khổ mà Đức Phật dạy và Tăng Ni thuyết giảng.

GIAI ĐOẠN THỨ HAI: Dứt si mê là gốc của phiền não khổ đau. Tất cả mọi khổ đau của kiếp người, gốc từ si mê mà ra. Một người giàu có, cơm no, áo ấm, ở nhà lầu, đi xe hơi, nhưng tâm họ si mê điên đảo, liệu người ấy có được an vui, hạnh phúc không ? Chắc chắn là không.

Thực tế trong xã hội có nhiều gia đình dư tiền lắm của mà thiếu an vui, hạnh phúc, bởi lẽ tâm trí còn mê loạn. Người này tham, người kia giận, người nọ đố kỵ, ganh tỵ….Tham, giận, đố kỵ… nổi lên liền bất an, đau khổ. Cái đau khổ này không phải do thiếu ăn, thiếu mặc mà do si mê. Vì si mê chấp thân này là ta nên cái gì đẹp quý, khởi lòng tham chiếm đoạt cho mình. Chiếm đoạt không được thì sân giận nổi lên bức xúc, đau khổ. Khi nào thấy thân này không thật là giảm si mê, si mê giảm thì tham sân cũng giảm.

Làm sao thấy thân này giả? Đọc kinh, Phật nói thân này do đất nước gió lửa hợp thành, nó sẽ hoại nên không thật. Ai cũng biết như thế, nhưng vẫn cứ tham, vẫn cứ sân, vì chưa hằng thấy thân này giả tạm, không thật. Thân này do tinh cha hợp với huyết mẹ và thần thức gá vào mà thành. Nhờ ăn cơm uống nước và hít thở không khí mà sống.

Đó là vay mượn bốn đại bên ngoài. Ăn cơm là vay mượn đất, uống nước là vay mượn nước, hít thở không khí là vay mượn gió. Mượn vô rồi trả ra, mượn mà không trả cũng không sống, trả mà không mượn cũng chết. Thở ra mà không hít vào thì chết ngay, hoặc hít vào mà không thở ra cũng chết. Không khí ở ngoài là của trời đất, mượn vô chốc lát trả ra nói là hơi thở của tôi. Mượn tách nước, ít tiếng đồng hồ trả ra nói mồ hôi của tôi, nước tiểu của tôi… Mạng sống của thân này là sự mượn trả tứ đại mà cho là mình. Có vô lý không? Cái mượn trả không phải là mình mà cho là mình thật, không si mê là gì ?

Kiểm lại cái gọi là mình đang sống, có thật an ổn, hạnh phúc không? Nếu mượn trả suông sẽ cho là hạnh phúc an vui, nếu mượn trả không suông thì đau đớn, quằn quại. Vậy cuộc sống của chúng ta là gì? Có thật không? Chỉ là sự mượn trả tứ đại tạm bợ. Thế mà chúng ta cho là mình thật, chấp vào đó sanh nhơn ngã sân giận đủ thứ. Thấy như vậy không si mê là gì? Trong cuộc sống, nếu hằng nhớ mình đang mượn trả thì không lầm, đã không lầm thì không chấp. Vậy si mê ban đầu là si mê chấp ngã. Nếu thấy rõ cái ngã là thân này không thật thì bớt tham lam, bớt nóng giận, bớt si mê, sống giữa đời này bớt đau khổ.

Đó là Phật chỉ cho chúng ta thấy thân này là duyên hợp, hư dối, không thật, để chúng ta bớt si mê chấp ngã, giảm bớt khổ đau. Đó là bước thứ hai của từ bi cứu khổ mà Phật dạy và Tăng Ni trùng tụng thuyết giảng. Song, cách cứu khổ này ít người biết đón nhận, chỉ những ai khéo tiếp thu và khéo ứng dụng mới nhận được lợi ích này .

GIAI ĐOẠN THỨ BA: Dứt vô minh thoát luân hồi sanh tử. Ở đoạn trước mới phá si mê chấp thân là ngã. Phần này nói phá vô minh chấp tâm là ngã. Vô minh là đầu mối dẫn con người đi trong luân hồi sanh tử. Vòng luân hồi sanh tử là mười hai nhân duyên, vô minh dẫn đầu. Muốn dứt luân hồi sanh tử là phải hết vô minh, đạo Phật dạy tu để giác ngộ; giác ngộ là trí tuệ sáng lên, vô minh hết. Mọi khổ đau gốc từ vô minh mà ra, nếu giác ngộ thì hết vô minh, hết vô minh thì hết khổ.

Vô minh theo giáo lý nguyên thủy là thấy biết không đúng như thật. Chẳng hạn thân này do tinh cha hợp với huyết mẹ, thần thức gá vào mà thành, vay mượn đất nước gió lửa bên ngoài để sống. Thế mà nhận cái vay mượn là mình thật. Đó là thấy biết không đúng như thật, là vô minh. Nếu thấy rõ thân này do tinh cha hợp với huyết mẹ, thần thức gá và mà thành, vay mượn tứ đại bên ngoài mới tồn tại, không phải là ta. Đó là thấy đúng như thật, thấy như vậy là sáng.

Vô minh theo kinh Viên Giác là chấp thân tứ đại này là thân ta thật, chấp tâm nghĩ tưởng lăng xăng là tâm ta thật. Chấp thân tâm này là ta thật, đó là vô minh. Theo nghĩa này, mỗi người chúng ta có ai không vô minh? Vậy làm sao không chấp thân tâm là ta để được minh? Như ở trên đã nói, thân này do tứ đại bên ngoài bồi bổ thường xuyên mới sống còn. Cái mà do vay mượn mới sống còn thì không phải là ta thật. Thấy rõ như vậy thì bớt phần chấp thân. Còn chấp cái suy nghĩ tốt xấu, hơn thua… là tâm mình làm sao phá? Bây giờ chúng ta thử kiểm lại xem từ sáng tới chiều có bao nhiêu lần nghĩ tốt, nghĩ xấu, nghĩ khôn, nghĩ dại…? Cộng lại có cả trăm lần nghĩ như thế. Nghĩ nhiều như vậy thì chúng ta nhận cái nghĩ nào là mình? Cái nghĩ tốt là minh hay cái nghĩ xấu là mình? Nếu cái tốt là mình thì cái xấu là ai? Chẳng lẽ cả trăm thứ đều là mình? Cả trăm thứ ấy là mình, quý vị có chấp nhận không? Nếu thật là mình thì trước là mình, sau cũng là mình. Nhưng trước tốt, sau xấu, trước khôn, sau dại… mình nhiều dạng như thế ư? Cái nghĩ suy biến đổi như thế thật không phải là mình. Đó là giai đoạn thứ nhất chấp nghĩ tưởng là mình không đúng.

Giai đoạn thứ hai: Nếu chấp cái nghĩ tưởng là mình thì có những phút giây không nghĩ tưởng gì hết, lúc đó có mình không? Lúc nghĩ tưởng là mình, vậy lúc không nghĩ tưởng không có mình sao? Nhưng tại sao không nghĩ tưởng mà vẫn biết? Có biết tức có mình. Có mình lúc không nghĩ tưởng, tức là không suy nghĩ mà vẫn có mình. Như vậy, cái nghĩ tưởng không phải là mình. Nghiệm lại thật kỹ mới thấy lẽ thật tại chỗ này. Lại nữa, nếu chấp cái nghĩ tưởng là mình, vậy thử tìm coi cái nghĩ tưởng ở đâu? Khi tìm nó thì nó mất tiêu, không còn dấu vết. Xét kỹ cái nghĩ tưởng, đủ duyên thì nó khởi lên, hết duyên thì nó lặn mất. Vậy nó đâu có thật, nếu có thật thì nó vắng mặt ở chỗ này phải có mặt ở chỗ khác. Cái nghĩ tưởng không thật mà chấp là mình có phải vô minh không? Cái vô minh này tệ hơn cái vô minh chấp thân là mình ở trước.

Mọi người chúng ta, khi nào thấy rõ thân này không thật, thấy rõ cái nghĩ tưởng không thật và nhận ra cái chân thật, chừng đó mới hết luân hồi sanh tử khổ đau. Nếu cứ thấy thân duyên hợp là mình, thấy cái nghĩ tưởng sanh diệt là mình, thì luân hồi khổ đau không bao giờ hết. Tại sao vậy? Vì cái nghĩ tưởng sanh diệt là cái động, thân duyên hợp là cái động. Phàm cái gì duyên hợp và động thì luôn luôn biến chuyển, nó hợp tan, tan hợp không dừng, vì vậy mà luân hồi sanh tử mãi. Do đó, Phật mới chỉ cho người đời thấy tường tận thân và cái nghĩ tưởng không thật, để dứt cái vòng luân hồi đau khổ. Đó là Phật cứu chúng ta, giải thoát sanh tử khổ một cách rốt ráo. Nói như thế chắc có người thắc mắc: Thân không thật là mình, nghĩ tưởng không thật là mình. Vậy cái gì thật là mình? Tôi xin trả lời: Cái biết thân này không thật và nghĩ tưởng không thật, “ cái biết ” đó không phải là cái giả dối. Nếu nó giả dối thì đâu biết được thân và nghĩ tưởng không thật! Cái bị biết là thân và nghĩ tưởng, hai cái này không thật, cái hay biết mới là thật.

Tóm lại, khi thấy rõ thân này không thật, nghĩ tưởng không thật, nhận ra “cái biết ” hằng hiện hữu nơi mình, chừng đó mới hết khổ. Đó là giáo lý từ bi cứu khổ của đạo Phật. Chúng ta học Phật, học từ thấp lên cao, bước đầu là tam quy, ngũ giới. Sau đó biết thân tâm này là vô thường, vô ngã… tiến lên bước nữa biết vô minh là nguồn gốc của luân hồi sanh tử khổ, không sống với vô minh, mà hằng sống với trí tuệ là “cái biết” hằng hữu ở nơi mình. Ngang đây mới hết khổ. Đó là cách cứu khổ của đạo Phật mà Tăng Ni thường giảng dạy cho người đời nghe để tu học cho hết khổ.

——————————————————————————————

ĐẠO PHẬT LÀ ĐẠO DIỆT KHỔ

http://www.thuong-chieu.org/uni/KinhSachThiKe/PhoThong/HoaVoUu4/Html/05.htm

Trường hạ Phổ Đà – 2000

Bài pháp tôi giảng hôm nay có đề tài Đạo Phật là đạo diệt khổ. Bởi vì nhiều người nói đức Phật là đấng cứu khổ chúng sanh, nhưng chúng ta tu theo Phật nhiều năm mà thấy khổ cũng còn hoài chưa hết. Như vậy từ “cứu khổ chúng sanh” có hiệu nghiệm đúng như thật hay không? Vì vậy ở đây tôi sẽ nói rõ cho quí vị thấy tại sao đạo Phật là đạo cứu khổ chúng sanh, mà chúng ta tu theo đạo Phật, vẫn còn khổ hoài.

Lâu nay hàng Phật tử chúng ta có sự hiểu lầm về hai chữ “cứu khổ” này. Mỗi khi gặp tai nạn, hay làm việc gì thất bại, quí vị liền cầu: “Phật cứu cho con hết khổ.” Nếu Phật cứu được thì bệnh phải hết liền; vậy mà nhiều người nằm tới mười ngày, hai mươi ngày, có khi cả đôi ba tháng. Như vậy Phật có cứu không? Cầu mà không như nguyện, thì người ta cứ ngầm tưởng Phật không linh. Mình tin Phật, cầu xin Phật mà sao không có kết quả? Đó là vì họ không hiểu đạo Phật.

Có những người làm ăn, mua bán gặp lúc thất bại, rồi nợ nần, liền cầu nguyện Phật: “Phật cứu cho con làm ăn phát tài, trả nợ cho mau” v.v… Nếu cầu hoài không được thì nói Phật thương chúng sanh, mà sao mình khổ, mình cầu, Phật không cứu? Như vậy nghĩa “cứu khổ” của Phật đâu còn. Đó là chỗ lầm lẫn của đa số Phật tử hiện nay. Do hiểu lầm nghĩa cứu khổ, nên cứ cầu mong Phật cứu mình. Nếu không được như nguyện thì tưởng chừng như lời Phật là lời hứa suông, chớ không phải là lời thật. Vì thế niềm tin nơi Phật bị suy kém đi.

Giờ đây chúng ta phải định nghĩa “Phật cứu khổ chúng sanh” là cứu bằng cách nào? Chúng ta phải nắm cho vững, hiểu cho rõ, thì mới biết được ý nghĩa “Phật cứu khổ chúng sanh”. Thường người ta cứ nghĩ khổ là từ bên ngoài đưa vào, mà không thấy được khổ gốc từ nơi chính mình ra. Bởi vậy khi gặp khổ, Phật tử vội vã cầu Phật cứu. Cầu không được liền cho rằng Phật không linh, không sẵn sàng cứu khổ mình. Đó là hiểu sai lầm.

Quí vị nhớ người Phật tử, khi qui y với Phật thì trước phải giữ năm giới: không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu. Giữ giới như vậy để làm gì? Nhiều khi Phật tử cũng không biết tại sao phải giữ giới nữa. Bởi giới luật của Phật là hàng rào ngăn chặn không cho chúng ta rơi xuống hố tội lỗi. Vì rơi xuống hố tội lỗi là đau khổ. Như vậy giới luật giữ cho ta không rơi vào chỗ đau khổ.

Người phạm giới sát sanh như giết người thì khổ hay vui? Dĩ nhiên là khổ. Phật tử dầu có giận mấy, nhưng nghĩ tới muốn hại, muốn giết người thì phạm giới cấm của Phật nên không dám giết. Giận cũng ráng chịu, phải không? Nhờ không giết người, nên không bị tù tội, không bị oán thù. Tù tội, oán thù, hai việc đó khổ hay vui? Hai nỗi khổ lớn. Nhờ giữ giới nên dù giận cách mấy, chúng ta cũng chận được những nỗi khổ lớn lao. Không giết người thì mình không bị tù tội, không bị người ta giết hoặc đánh đập lại. Như vậy giới ngừa đón quả khổ trước khi mình tạo tội. Giữ một giới thì hết khổ một phần.

Nếu giữ thêm giới không trộm cướp, thì không bị bắt bớ, tù tội. Đó là tránh được một nỗi khổ. Giữ giới không tà dâm thì bớt được nỗi khổ gia đình ly tán. Nếu gia đình, chồng hoặc vợ ngoại tình với kẻ khác thì gia đình đó vui hay khổ? Khổ. Người chồng hoặc người vợ đau khổ và con cái cũng đau khổ nữa. Như vậy giữ giới không tà dâm thì vợ chồng hòa thuận, con cái vui tươi. Đó là tránh được khổ rồi. Không nói dối gạt người, thì không bị người chê trách, khinh bỉ mình. Ngược lại, nếu dối gạt người thì sẽ bị người chê trách, khinh bỉ. Khi bị người chê trách, khinh bỉ, mình có vui không? Mình khổ. Bây giờ mình tránh không lừa dối ai, nên không bị chê trách, giận hờn thì mình khỏi khổ.

Không uống rượu say, không hút á phiện, không xì ke ma túy, có khổ không? Không khổ. Nếu ở gia đình, có một ông chồng cứ say lê mê, ra đường thì ngả nghiêng, về nhà thì ụa mửa, quí vị có khổ không? Rất khổ. Nếu người chồng là Phật tử tỉnh táo, sáng suốt, không say sưa thì vợ không khổ, mà bản thân người chồng cũng được vui. Nếu trong gia đình không có ai hút á phiện, xì ke ma túy thì gia đình đó hạnh phúc, không bị khổ.

Như vậy Phật dạy giữ năm giới có phải là chận đứng gốc đau khổ cho chúng ta không? Mà chận đứng đau khổ cho chúng ta tức là cứu khổ rồi. Phật cứu khổ chúng sanh bằng cách cứu nhân chớ không cứu quả. Chúng ta bây giờ đòi cứu quả chớ không chịu cứu nhân. Khi gặp khổ, thí dụ như đi ăn trộm của người ta, bị lính bắt liền cầu Phật cứu. Phật cứu được không? Bây giờ Phật dạy mình ngừa, không trộm cắp thì sẽ không bị bắt bớ. Đó là Phật đã cứu rồi.

Như vậy Phật cứu khổ chúng ta là cứu khổ từ nhân. Chúng ta không gây nhân xấu, thì không gặp quả khổ. Chớ Phật không thể cứu khổ trên quả được. Bởi vì theo luật nhân quả, hễ gây nhân nào thì gặt quả ấy thôi, không thể khác được. Cho nên Phật cứu mà chúng ta không thấy cứu.

Tôi thường hay ví dụ, có hai người đang cãi vã ngoài đường, một nhà tu đi ngang khuyên: “Thôi, hai anh bỏ qua đi, hòa với nhau đi, cãi lẫy làm chi rồi sanh đánh đập nhau thì khổ lắm, đừng làm việc đó.” Khuyên như vậy mà hai người kia chẳng thèm nghe. Do không chịu nghe nên cãi một hồi rồi đập nhau lỗ đầu, phải chở vô bệnh viện. Tại bệnh viện nhờ y tá băng bó, trị liệu cho lành. Khi được lành, người ấy mang ơn ai? Họ nói: “Mấy vị y tá tốt quá, đã băng giùm những vết thương cho họ.”

Như vậy họ chỉ biết ơn người cứu mình trên quả. Còn người khuyên mình dứt từ nhân thì lại không chịu nghe, coi thường. Lẽ ra kẻ ấy nhớ lại “phải chi hôm đó mình nghe lời thầy khuyên, đừng chửi, đừng đánh lộn thì đâu có bị thương tích.” Như vậy thì được lành lặn trọn vẹn. Đằng này đợi đánh lỗ đầu rồi, đi băng bó, rốt lại mang ơn người băng bó, mà không mang ơn người khuyên mình từ buổi đầu. Quí vị thấy có dở, có muộn lắm không?

Người ta thường bị lỗi vì chỉ biết trên quả đang đau khổ thì cầu cứu; mà không biết nguyên nhân đưa đến đau khổ để ngừa tránh. Đức Phật thấy tường tận nguyên nhân nào đưa chúng ta tới đau khổ. Ngài khuyên dạy phải đừng tạo nhân đó. Nhân đã không tạo thì quả làm gì có. Như vậy nhìn cạn, chúng ta không thấy Phật cứu, nhưng thật sự Phật đã cứu ta rồi! Phật cứu mà không thấy, vì cứu trên nhân. Còn thế gian cứu mình là cứu trên quả.

Phật dạy chúng ta giữ năm giới, đó là ngừa đón tội khổ cho chúng ta. Nếu chúng ta tuân theo, giữ đúng thì sẽ hết khổ. Đó là chúng ta tu. Tu thì sẽ hết khổ. Hết khổ nhờ vâng lời Phật dạy, tuân theo hành theo, nên chúng ta hết khổ, gọi đó là Phật cứu khổ. Như vậy ý nghĩa cứu khổ trong nhà Phật rất rõ ràng.

Còn hàng xuất gia thì rất nhiều giới. Nhưng tôi chỉ nói giới phổ thông, gần gũi nhất là giới Sa-di. Sa-di có mười giới. Bởi vì người tu phải giữ mười giới đầu là giới gốc.

1-  Không sát sanh.

2-  Không trộm cướp.

3-  Không dâm dục.

4-  Không nói dối.

5-  Không uống rượu, không dùng các chất say như xì ke ma túy v.v…

6-  Không ca hát.

7-  Không đeo tràng hoa, không xông ướp các chất thơm.

8-  Không nằm ngồi giường to lớn.

9-  Không được ăn phi thời.

10- Không giữ tiền bạc, châu báu v.v…

Những điều đó nghe qua, quí vị thấy có gì quan trọng mà Phật bắt phải giữ như vậy. Thí dụ như lâu lâu thân thể hôi hám, có ai cho xà bông thơm hay dầu thơm, mình thoa một chút cho đỡ hôi, có tội gì đâu, có hại ai đâu, mà Phật cũng cấm nữa.

Chúng ta nhớ Phật dạy người xuất gia, tu để giải thoát sanh tử. Mà muốn giải thoát sanh tử thì phải dứt hết những tâm ô nhiễm dục lạc của thế gian. Nếu xoa dầu thơm, nghe mình hơi thơm thì liền khởi niệm thích. Đó chính là niệm dẫn tới ái dục của thế gian. Người khác nghe mùi, họ nghĩ rằng vị tu sĩ đó còn thích trang sức cho đẹp, chứng tỏ là tu chưa kỹ, nên họ chọc ghẹo, từ đó mà dẫn tới nhiều chuyện không tốt.

Như vậy Phật ngừa đón, không cho mình làm những điều đó. Bởi vì làm điều đó là tuột xuống, không còn đi trên đường giải thoát nữa. Tuy nó nhỏ, không làm khổ cho ai, nhưng nó là nhân tế nhị dẫn chúng ta đến gần các thứ dục lạc của thế gian, nên người tu phải tránh đi.

Như Phật dạy không được xem hát, hay nghe nhạc, v.v… Chúng ta thấy xem hát nghe nhạc, đâu có làm tổn thương ai, sao Phật không cho? Bởi người xuất gia thì luôn giữ tâm trong sạch, an định. Nếu đi xem hát, nghe nhạc, tâm sẽ bị chao đảo, rung động. Rung động thì mất chánh niệm, tà niệm sẽ dễ sanh. Như vậy trên đường giải thoát có thể lui sụt. Cho nên Phật cấm không được nghe nhạc, không được đi xem hát, đó là ngừa từ nhân. Giữ được tâm an định thì việc tu tập không bị lui sụt.

Ví dụ bên cạnh con đường ta tới lui là một cái hố sâu rất nguy hiểm, nếu lọt xuống đây thì ngoi đầu lên không nổi. Cũng vậy, muốn hàng xuất gia khỏi lọt xuống hố, nên Phật dùng cái hàng rào chắn ngang gần miệng hố. Chúng ta đi vừa đụng nó liền dội lại nên không rớt xuống hố. Nếu không có hàng rào này thì họa rơi xuống hố khó tránh khỏi. Hàng rào là gì? Là giới luật vậy. Cho nên giới có nghĩa là phòng phi chỉ ác.

Phòng phi nghĩa là ngừa những việc quấy; chỉ ác là dứt, dừng những tội lỗi. Giới chính là hàng rào ngừa đón tội lỗi, dẫn người tu đi đến đau khổ. Do đó Phật chận trước. Bắt giữ giới là ngừa đón trước, để đừng xảy ra những việc không tốt. Người tu mà không chịu giữ giới thì sao? Thì có ngày lọt xuống hố, không nghi ngờ gì cả!

Như vậy cư sĩ tại gia có năm giới, người xuất gia có từ mười giới trở lên, tùy theo cấp bậc. Cho nên biết giới là phương tiện ngừa đón cho chúng ta không bị khổ. Nếu ai biết giữ giới luật thì người đó hết khổ, ngược lại kẻ không chịu giữ giới thì phải chịu đau khổ. Đó là chặng tu ban đầu của chúng ta. Nếu chặng ban đầu không thực hiện được thì chặng thứ hai, thứ ba, chúng ta khó thực hiện được.

Thí dụ Phật dạy chúng ta đừng tham, phải bớt tham. Nhưng Phật tử ham làm ăn nên cứ vay vốn làm ăn mãi, không chịu dừng. Đến hồi lỗ vốn, chừng đó kêu Phật cứu. Phật cứu kịp không? Thôi thì mình có bao nhiêu ăn bấy nhiêu, đừng tham nhiều. Đừng tham thì đâu có lỗ. Không lỗ thì đâu phải thiếu nợ. Chờ đến khi lỗ vốn, thiếu nợ rồi mới kêu Phật cứu, Phật cứu làm sao được? Đó là những điều Phật tử chúng ta không thấy, không hiểu nên phải chịu khổ.

Như Phật dạy đừng nóng giận, vì nóng giận là con rắn độc. Nhưng Phật tử vẫn cứ nóng giận. Ai nói gì trái ý liền nổi nóng, la lối, có khi chửi đánh nữa. Mà la lối chửi đánh nhau thì khổ thôi, chớ vui sao được. Với người láng giềng mà la lối, chửi mắng om sòm, thì mai mốt gặp mặt nhau có khổ không? Phật gọi đây là oán tắng hội khổ, thù oán gặp nhau là khổ. Nếu đi ra đi vô gặp mặt hoài thì cả ngày khổ hoài, phải không? Còn nếu mình không nóng giận, đánh đập, chửi bới nhau thì gặp nhau vui cười, đó là không khổ. Như vậy tất cả nỗi khổ đều do chúng ta tạo. Nếu mình biết tu nó sẽ chuyển, sẽ hết; không biết tu nó còn hoài.

Tôi nhắc lại câu chuyện trong kinh. Một hôm đức Phật hỏi các thầy Tỳ-kheo: “Này các Tỳ-kheo, nếu ở trong thất của các ông ngủ có ba con rắn độc, các ông có ngủ yên không?” Các thầy Tỳ-kheo bạch Phật: “Bạch Thế Tôn, chúng con ngủ không yên!” Phật hỏi: “Làm sao các ông mới ngủ yên?” Các thầy thưa rằng: “Chừng nào chúng con đuổi hết ba con rắn ra khỏi thất, chừng đó ngủ mới yên.” Phật nói: “Cũng vậy, tham sân si là ba con rắn độc, chúng còn nguy hiểm hơn cả rắn độc nữa.” Tại sao? Rắn độc chỉ cắn thân này chết trong một đời thôi; còn tham, sân, si, sẽ khiến chúng ta tạo nghiệp đi trong sanh tử. Hết chết thân này, tiếp tục chết thân thứ hai, thứ ba, cho tới trăm ngàn thân. Rắn độc chỉ giết chúng ta một thân, còn tham, sân, si giết không biết bao nhiêu thân. Rõ ràng nó độc hơn cả rắn độc rồi.

Nên biết còn một trong ba cái độc tham, sân, si ở trong mình, thì chúng ta chưa thể an được. Nhưng không hiểu tại sao Phật tử cũng như hàng xuất gia còn thương ba con rắn độc quá! Thương nên không nỡ đuổi nó ra. Như vậy thì rõ ràng là tự mình chuốc khổ. Chúng ta tưởng tượng trong cái thất, có ba con rắn độc cứ bò qua bò lại thì mình sẽ thế nào? Mất ăn mất ngủ phải không? Cũng vậy, trong thân này còn tham, sân, si tức còn rắn độc thì làm sao ngủ yên? Cho nên các vị Cổ đức hay khuyên: “Các ông phải diệt trừ phiền não. Phiền não còn lừng lẫy thì các ông đâu thể an vui mà ngủ.” Thật sự như khi quí vị đang giận ai, giận tức bụng, nghe tiếng kẻng đi ngủ, mà nằm hoài ngủ không được. Thì đó, bởi vì còn rắn độc lảng vảng trong đầu, làm sao ngủ được!

Cho nên người tu, tại gia cũng như xuất gia, biết ba con rắn độc nguy hiểm, chúng ta phải tránh, phải đuổi nó ra, đừng chứa chấp. Ba con rắn độc đó, tôi tượng trưng rắn thứ nhất là rắn hổ ngựa. Rắn hổ ngựa là rắn gì? Tức con rắn trong đồng quê, nó lướt trên cỏ nhanh lắm, như ngựa vậy. Đó là rắn tham. Rắn thứ hai là rắn hổ lửa. Hổ lửa là rắn gì? Là rắn sân. Rắn thứ ba là rắn hổ đất. Nó chun vào hang tối, mình không thấy nhưng gặp nó, nó cắn cứu không được, là rắn si.

Như vậy trong ba con rắn, nổi nhất hung dữ nhất là hổ lửa, nhanh nhẹn nhất là hổ ngựa, mà lì lợm nhất là hổ đất. Chúng ta có đủ ba con rắn đó không? Ai có đủ ba con rắn đó thì phải làm sao? Biết trong nhà mình chứa ba con rắn độc như vậy thì không thể nào an ổn. Không an ổn tức là đau khổ. Vậy muốn hết đau khổ phải tìm đủ cách để đuổi nó ra. Thế mà có người không chịu tìm. Được người ta khuyên đuổi ra, còn nói: “Được, để đó đi, không sao đâu!”

Như tôi thường nói, chúng ta hay nóng giận. Ai nói trái ý liền đỏ mặt la om sòm. Khi đó, huynh đệ khuyên: “Mình tu rồi nóng giận coi không được, kỳ lắm, bỏ đi!” Ta liền nói: “Tánh tôi vậy đó, bỏ không được.” Nói thế có nghĩa là tánh như vậy thì giữ như vậy, không bỏ được. Đó là không sợ con rắn hổ lửa rồi, nên mới chấp nhận cho nó ở chung. Phật tử sống ngoài thế gian cũng vậy, nhiều khi vợ chồng có chuyện cãi vã. Vợ nói: “Sao anh nóng quá vậy!” chồng liền lớn tiếng: “Tánh tôi nóng vậy đó, đừng có động tới!” Vì giữ tánh nóng, nên động tới là tóe lửa liền. Đã không ưng bỏ nên mới bảo vệ nó.

Chúng ta mới thấy rằng trên đường tu, nếu mình không can đảm, không chịu dẹp bỏ những nhân đau khổ thì quả đau khổ tránh sao cho khỏi. Thí dụ người xuất gia mà nuôi rắn hổ lửa, hôm nào huynh đệ nói gì trái ý, nổi giận tát tai người ta. Do tát tai người ta, nên chiều nhóm chúng bị đuổi đi. Bị đuổi đi liền đắp y lên bàn Phật, thắp hương nguyện: “Phật cứu độ con, con bị đuổi ra khỏi chúng, khổ quá!” Phật cứu kịp không? Phật cũng không biết làm sao cứu.

Chính khi biết mình nóng, là do chứa con rắn độc thì phải dẹp nó liền. Dẹp nó là y theo lời Phật dạy để mình hết khổ. Đó là Phật cứu mình. Đằng này không chịu dẹp nó, chờ tới quả rồi mới cầu Phật cứu. Ở thế gian, tham lam là tật xấu, là tội lỗi mà thấy của người ta vẫn cứ tham. Tham rồi lén ăn cắp. Ăn cắp nên bị người ta bắt được, đưa vô khám. Lúc vô khám chắp tay cầu nguyện: “Phật độ cho con được mau ra.” Phật là bậc biết luật làm sao độ như vậy được. Bởi nhân mình không tránh thì quả đến, Phật cũng thua thôi, không làm gì được.

Đức Phật từ bi vô hạn, cho nên Ngài ngừa đón giúp chúng ta từ ban đầu. Vì muốn tránh khổ cho chúng sanh, nên Phật răn dạy đừng làm những điều ấy. Nhưng chúng ta không nghe thì khổ đến Phật không làm sao cứu được.

Ví như người cha, người mẹ thương con đáo để. Đứa con trai mười ba, mười lăm tuổi, cha mẹ khuyên cấm không cho hút thuốc, không cho uống rượu, không cho chơi với mấy đứa trẻ hư hỏng v.v… cấm năm bảy điều. Cấm như thế, đứa con thấy ba má mình khắt khe quá. Tại sao ba má thương mà lại khắt khe với con? Nhưng điều đó phải khắt khe không? Chính sự ngăn cấm là ngừa đón cho con khỏi những thói hư, tật xấu. Trái lại con không chịu nghe, nên giao du với bạn xấu, đánh lộn với người ta lỗ đầu, chảy máu, rồi chạy về nhà kêu ba má. Ba má làm gì được? Đi chơi ngoài đường, ở chỗ xa, đánh lộn thì phải ráng chịu chớ ba má làm sao cứu. Trước ba má đã bảo đừng chơi với lũ côn đồ, du đãng; bây giờ chơi với nó thì nó đập phải chịu chớ sao. Cha mẹ vì sợ con hư, nên mới răn cấm không cho con làm những điều đó. Nhưng đứa con không biết, nên chuốc quả khổ. Cha mẹ dù có thương đáo để cũng không làm gì được.

Cũng vậy, Phật vì thương chúng sanh, dạy cho chúng sanh pháp tu để hết khổ. Cho nên Ngài chế giới răn cấm các việc lỗi lầm gây ra đau khổ. Nếu nhân không tạo thì quả đâu có. Như vậy là đã cứu cho chúng ta thoát khỏi khổ đau một cách trọn vẹn, an lành. Chớ còn chờ gặp tai nạn, đau khổ rồi mới cứu thì dù có cứu được cũng không trọn vẹn.

Thế nên chúng ta phải hiểu giá trị của đạo Phật, tu là tránh trước những nhân gây ra tội lỗi, gây ra đau khổ. Nhờ tránh nên không khổ. Đó là biết tránh và biết tu theo nhân quả nghiệp báo. Người Phật tử cũng như người xuất gia, muốn hết quả đau khổ thì phải tránh nhân ác. Những gì thuộc về nhân xấu, nhân ác thì tuyệt đối không làm. Ví dụ, như có người thấy gia đình kia có một đứa con cưng quí. Thấy rồi liền sanh tâm đố kỵ, sao mình không được cưng quí như người đó? Do đố kỵ nên gặp chú con cưng của người ta đi chơi, liền vây đánh để trả cái hận ganh tỵ đó. Đánh người ta lỗ đầu nên bị lính còng tay. Chừng đó làm sao? Tại vì mình không tránh nhân ác thì quả ác tới mình phải chịu. Chớ nếu mình biết: “À người ta có phước nên được cha mẹ cưng chiều, tưng tiu; còn mình vô phước nên cha mẹ nghèo, không được như vậy. Thì thôi phước ai nấy hưởng, mình đố kỵ làm chi cho thêm buồn, thêm khổ.” Biết suy nghĩ như vậy thì đâu có chuyện gì xảy ra. Cho nên đức Phật dạy: “Người hay đố kỵ là người gây nhiều đau khổ.”

Khi có tâm đố kỵ thì phải dùng thuốc gì để trị? Phật dạy dùng thuốc “Tùy hỉ” trị tâm đố kỵ. Tùy hỉ là sao? Tùy là theo, Hỉ là vui. Thấy người khác được cha mẹ cưng, mình vui theo: “Anh đó có phước, được cha mẹ cưng thật là đáng mừng đáng vui cho anh.” Không có tâm đố kỵ thì đâu có đánh người ta. Hoặc xóm mình nghèo, xóm người giàu thì mình cũng vui theo: “Tôi rất mừng cho anh (chị) làm ăn có phước được khá giả.”

Nếu mình vui, mình mừng giùm họ, họ có ghét mình không? Làm sao ghét được. Đằng này thấy người ta làm ăn phát đạt giàu, còn mình nghèo, nên gặp nhau không thèm nói tới tên, không thèm chào người ta. Từ đó trở thành thù địch, rồi dẫn tới ghét nhau. Mai kia lỡ có chuyện cần chút ít tiền gấp, chạy qua mượn họ không cho. Chừng đó có phải khổ không?

Vì vậy mà Phật dạy phải tùy hỉ, thấy ai được tốt, được vui mình đều mừng vui theo họ. Họ được coi như mình được thì không khổ. Còn nếu người thấy ai hơn mình cúi đầu ngó xuống, không bằng lòng, người đó sẽ khổ. Như mình mặc một bộ đồ hơi sơ sài, thấy người ta mặc bộ đồ đẹp hơn thì cúi gằm mặt xuống. Mình đi chiếc xe đạp, còn người ta lái xe máy cũng gằm mặt xuống v.v… Như vậy từ sáng tới chiều, mình cứ cúi mặt không dám nhìn ai hết, khổ chưa. Còn nếu vui theo người ta thì cả ngày mình vui hoài, sướng không.

Như vậy khổ từ đâu mà có? Từ tâm đố kỵ có. Nhiều khi anh em ruột, mà người anh làm ăn phát tài, người em làm ăn trật lên trật xuống nghèo khổ, thì anh em cũng hết thân nhau. Hết thân là tại người anh coi thường em, hay tại người em có tâm đố kỵ nên tránh xa anh? Tâm đố kỵ làm cho người ta đau khổ là vì vậy.

Chúng ta biết tu rồi, thì nên có tâm tùy hỉ với mọi người chung quanh. Ai được tốt, được vui mình mừng với họ. Vui vẻ, chia sớt niềm vui, hạnh phúc với họ, thì có ai ghét mình đâu. Như vậy chúng ta sẽ hết khổ. Tâm của mình càng mở rộng, càng vui vẻ. Ngược lại, càng hạn hẹp chừng nào thì càng đau khổ chừng ấy. Cho nên tu là phải biết mở rộng lòng mình, đừng khép kín, đừng ích kỷ, đừng đố kỵ, đừng xấu xa, thì chúng ta sẽ hết khổ.

Đó là nói tránh những điều ác. Kế đến còn làm thêm việc lành nữa. Như thế chẳng những mình hết khổ mà còn được vui. Ví dụ ta ra đường, thấy một đứa bé đi học, bị sẩy chân té. Ta liền chạy lại đỡ nó, phủi cho sạch sẽ, rồi lượm tập vở lên gói ghém đàng hoàng, đưa nó ôm đi. Giúp nó qua tai nạn bất thường đó, nó có mang ơn mình không? Tự nhiên khi bình tĩnh lại, nó biết cám ơn mình. Chúng ta làm được việc đó có vui không? Làm cho người ta bớt khổ, đó là nguồn vui của mình rồi. Mai chiều gặp lại, nó biết xá, biết cám ơn, thì càng vui hơn.

Nên làm được một chút điều lành là tạo một cơ hội vui cho mình. Mình vui người cũng vui. Đó là tu. Trên đường tu chúng ta phải hiểu thấu đáo, tường tận ý nghĩa đó. Đừng nghĩ rằng miễn được phần mình thì thôi, còn ai khổ mặc họ. Phải nghĩ rằng, tất cả đau khổ của người chính là đau khổ của mình. Giúp cho người là giúp cho mình. Nhớ nghĩ như vậy, chúng ta sẽ vui hoài, đi đâu làm gì chúng ta cũng vui. Ngược lại, chúng ta khó làm được các điều vui.

Trong lá phái qui y của quí Phật tử có bốn câu kệ của Phật Ca-diếp:

Chư ác mạc tác
Chúng thiện phụng hành
Tự tịnh kỳ ý
Thị chư Phật giáo.

Dịch:

Không làm các điều ác
Vâng làm các điều lành
Giữ tâm ý trong sạch
Là lời chư Phật dạy.

Không làm các điều ác là giữ giới luật, ngăn ngừa không tạo các tội lỗi. Vâng làm các điều lành là sống với tâm đạo đức. Việc lành lớn, việc lành nhỏ nào, mình cũng sẵn sàng làm, sẵn sàng giúp người. Đó là tu. Chớ còn tu mà cứ nghĩ đi chùa tụng kinh lạy Phật đủ rồi, ai khổ mặc họ thì chưa phải thật tu.

Chúng ta sống trong lòng xã hội, nên mỗi cái xấu, mỗi cái dở của xã hội đều liên hệ, ảnh hưởng tới mình. Cho nên người khổ thì mình cũng khổ. Người vui mình cũng vui. Vì vậy mà chia sớt nhau cho bớt khổ để được vui. Đó là chúng ta tu trong thực tế. Đừng nghĩ chỉ có cúng Phật, tụng kinh mới là tu. Hiểu như vậy là hẹp hòi, chưa thông suốt.

Thêm một việc nữa, có nhiều Phật tử biết làm lành lánh dữ, mà cứ gặp tai họa liên miên. Người ấy tự nghĩ: “Cả đời mình làm lành, mà sao nay cứ tai họa này, mai tai họa kia?” Nghĩ như vậy nên thối tâm, hết muốn tu. Bởi thấy tu cũng không đi tới đâu, khổ cũng vẫn khổ, vậy thì tu làm chi.

Tôi thường nói, nếu quí Phật tử chưa bao giờ bị người đó làm phiền, thì khi gặp mặt họ, ta có giận không? Chắc chắn là không. Còn nếu người đó từng làm phiền mình, thì khi gặp mặt họ, ta thấy dễ thương hay dễ ghét? Thấy dễ ghét ngay. Như vậy do có sự oán hờn, nên khi gặp lại chúng ta bực bội, không vui, có khi còn muốn làm cho họ đau khổ nữa. Đó là tôi thí dụ.

Như vậy chúng ta nghĩ rằng mình chưa từng làm xấu, chưa từng hại người đó, mà tại sao họ lại hại mình? Sự thật, hiện tại mình chưa từng làm gì xấu với họ, nhưng biết đâu những năm về trước hay những đời trước, mình đã từng làm khổ họ. Bây giờ gặp lại, tự nhiên họ có ác cảm với mình ngay. Đó, là vì chúng ta đã gieo nhân từ trước. Rồi cũng có những người chưa từng là bà con thân quyến gì của mình, chưa từng là bạn thân của mình, mà tại sao thấy mặt họ ta thương liền.

Vậy tâm dễ thương dễ ghét đối với mọi người đó là do đâu? Ngay đời này họ chưa tạo nhân tốt hay nhân xấu với mình, nhưng nhân đời quá khứ còn thừa, cho nên gặp lại thấy dễ thương hoặc dễ ghét ngay. Người mình thấy dễ ghét đó, người khác lại thấy dễ thương. Chớ nếu người ta ghét nhau hết chắc trần gian này khó có chồng có vợ, phải không? Như vậy để thấy rằng có nợ nần, oan trái với nhau nên mới gặp lại.

Nên nhiều người kể lại trong một xóm mà có chị xin việc làm, tới đâu cũng được nhận hết. Còn có chị xin chỗ thấp nhất cũng không được nhận. Do đó chị oán trách xã hội bất công. Mà không biết tại nhân xấu của mình đã tạo từ trước. Có lẽ đời trước mình làm cho nhiều người ghét quá, nên bây giờ ai thấy mặt mình cũng không thèm nhìn, không thèm thương. Còn chị kia từng giúp đỡ kẻ này, người nọ nên đời này sanh ra, ai nhìn cũng thấy dễ thương.

Như vậy dễ thương, dễ ghét đều có nguyên nhân. Nguyên nhân ấy từ ai? Cũng từ mình mà ra. Chúng ta hiểu được lý nhân quả trong ba đời, thì sẽ không còn thắc mắc điều này nữa. Được tốt hay bị xấu, đều có nguyên nhân của nó, chớ không phải ngẫu nhiên mà ra. Nhưng người thế gian không hiểu như vậy, do đó cứ oán trách xã hội bất công, ưu đãi người này bạc đãi người kia. Ai được ưu đãi đều do phước lành của họ. Ai bị bạc đãi đều do những tội lỗi của họ mà ra.

Hiểu như vậy chúng ta mới thấy sống trong cuộc đời, mình không oán trách, hờn giận ai hết. Người xử sự xấu, mình không trách họ, mà trách mình hồi xưa không khéo tu, nên bây giờ bị người ta bạc đãi. Cứ tự nhắc: “Tại hồi xưa mình không khéo tu, nên bây giờ bị người bạc đãi, cũng đúng thôi.” Đối với người được ưu đãi, thì mình khen hồi xưa chị (anh) ấy khéo tu, nên bây giờ được người ưu đãi, đó là gương cho mình bắt chước. Nhờ nghĩ như vậy nên không ghét người được ưu đãi, cũng không buồn vì mình bị bạc đãi. Như vậy là người biết tu.

Chẳng những giới cư sĩ mà giới xuất gia cũng vậy. Có người ở trong chúng ai cũng thương, có người ai cũng ghét. Cứ mỗi khi người ta ghét, nói nặng nói nhẹ mình, thì mình tự nhủ: “Cũng phải thôi, tại hồi xưa mình không khéo tu.” Như vậy sẽ không giận, không phiền ai hết. Thấy người ta được thương, mình mừng theo và bắt chước, ráng tu để về sau sẽ được như vậy. Tu là không có tâm oán hờn, không có tâm đố kỵ. Nếu không khéo chúng ta cũng giống như người đời thôi. Ở trong chúng thấy ai được thầy thương, huynh đệ rủ nhau ghét cay ghét đắng người ta. Đó là tâm đố kỵ, rồi nói xấu, kiếm cách này cách kia hại người ta. Như vậy thì thật là tệ, không xứng đáng với tư cách một người xuất gia chút nào cả.

Do biết rõ được lý nghiệp báo, nhân quả trong ba đời, chúng ta mới không hờn giận, không oán trách. Còn không biết thì chúng ta dễ hờn giận, oán trách. Như vậy là chướng trên đường tu.

Đức Phật nói pháp Tứ đế: một là Khổ đế, hai là Tập đế, ba là Diệt đế, bốn là Đạo đế. Khổ đế là cái khổ của kiếp người. Sanh, già, bệnh, chết v.v… là khổ. Các thứ khổ này tự nhiên hay có nguyên nhân? Có nguyên nhân. Nguyên nhân là Tập đế, nhiều thứ hợp lại thành nguyên nhân đau khổ. Biết nguyên nhân đau khổ rồi, chúng ta phải làm sao? Phải tiêu diệt nó, cho nên gọi là Diệt đế. Diệt đế là tiêu diệt hết nguyên nhân đau khổ. Nếu diệt hết nguyên nhân đau khổ, thì quả đau khổ chấm dứt. Muốn diệt hết khổ thì phải dùng phương pháp để tiêu diệt, đó là Đạo đế.

Như vậy Khổ, Tập là nhân và quả của đau khổ. Diệt, Đạo là nhân và quả của Niết-bàn giải thoát. Nếu dùng Đạo đế tiêu diệt hết nguyên nhân Tập đế thì chúng ta sẽ hết khổ. Hết khổ là Niết-bàn, cho nên gọi là Diệt đế. Diệt đế là diệt hết nguyên nhân đau khổ, nên được an vui. Như vậy kinh điển Phật dạy chúng ta tu, phải lấy nhân quả làm nền tảng. Cái khổ nào cũng có nguyên nhân. Biết nguyên nhân rồi phải tiêu diệt nguyên nhân thì khổ mới hết.

Phật tử chúng ta thường hiểu lầm. Do chúng ta có gây tạo nhân tham lam, nóng giận, nên bị người ta trả lại những nỗi đau khổ. Lúc đó mình cứ trách ta khổ là do người khác làm ra, mà không nghĩ vì nhân tham lam, nóng giận của mình mà chuốc khổ về sau. Như vậy tu là phải diệt nhân tham lam, diệt nhân nóng giận thì khổ mới không còn. Ba thứ tham lam, nóng giận, si mê không còn thì hết khổ ngay. Sở dĩ chúng ta còn khổ là vì ba thứ đó còn.

Như vậy muốn hết khổ phải diệt Tập nhân gây ra đau khổ. Diệt hết Tập nhân đau khổ thì được an lạc. Nhưng diệt không có nghĩa là nói suông mà phải có phương pháp. Phương pháp đó gọi là Đạo đế. Tôi thường hay nói: “Đạo Phật là thực tế, là cụ thể, chớ không phải huyền bí, xa xôi. Nhưng Phật tử chúng ta bây giờ biến đạo Phật trở thành huyền bí hết.” Tại sao?

Như quí Phật tử biết mình còn nóng giận, còn tham lam là còn đau khổ. Như vậy đau khổ là bệnh. Bệnh đó phát nguồn từ sự nóng giận, tham lam. Như từ vi trùng sanh ra các bệnh khổ. Biết được vi trùng gây bệnh rồi thì phải kiếm thuốc trị vi trùng. Thuốc trị vi trùng là Đạo đế. Tiêu diệt được vi trùng làm cho mình khổ thì quả khổ mới hết. Ví dụ người bị bệnh rét, bác sĩ xem thấy bệnh này thuộc về vi trùng nào, tìm được vi trùng sanh ra bệnh rét này rồi mới cho toa thuốc. Bệnh nhân theo toa thuốc ấy, mua thuốc về uống thì vi trùng sẽ chết, bệnh được hết. Nhưng có người tới bác sĩ chẩn mạch, lại không chịu xem bệnh, không chịu xin toa thuốc, mà cứ chắp tay thưa bác sĩ: “cho tôi lành bệnh!” lúc đó bác sĩ nói sao? Chắc bác sĩ cũng chắp tay vái lại: “Tôi xin bái.”

Đức Phật từng nói Ngài là Vua thầy thuốc, chúng sanh có bao nhiêu thứ bệnh thì Phật có bao nhiêu thứ thuốc. Chúng sanh có tám muôn bốn ngàn phiền não thì đức Phật có tám muôn bốn ngàn pháp môn để trị. Thuốc nào trị bệnh đó. Bây giờ chúng ta tới Phật, không xin thuốc mà cứ chắp tay xin Phật cho con khỏe, cho con vui, cho con hạnh phúc v.v… thì Phật phải làm sao đây? Chắc Phật cũng lắc đầu thôi. Phật chỉ có khả năng biết bệnh, cho thuốc, còn phần lấy thuốc về uống là của chúng ta. Đó là hạng người thứ nhất.

Hạng người thứ hai chịu chẩn bệnh, lấy toa, nhưng đem toa về đọc hoài. Đọc tới đọc lui đến thuộc lòng mà bệnh vẫn không hết. Kẻ này tới kiện thầy thuốc: “Sao tôi đọc toa hoài mà không hết bệnh!” Bác sĩ sẽ nói sao? Tôi cũng bó tay luôn. Quí Phật tử thấy mình có giống như vậy không? Phật dạy kinh để chúng ta biết phương pháp tu. Bây giờ mình không chịu tu, mà cứ đọc kinh cho Phật nghe hoài. Đọc một thời gian rồi nói, sao tu mấy năm mà không hết phiền não! Kinh thuộc lòng mà phiền não không hết. Đó là tại sao? Tại vì chúng ta giống hệt người được toa thuốc mừng quá. Có toa thuốc hay cứ đem khoe người này người kia: “Tôi có toa thuốc hay” rồi đọc thuộc lòng, như vậy hết bệnh sao được?

Trên đường tu chúng ta phải thật tu, chớ không phải chỉ tu mà bằng hình thức bên ngoài. Như kinh Bát-nhã, đa số quí vị thuộc lòng, câu đầu là: Quán Tự Tại Bồ-tát hành thâm Bát-nhã ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách. Nghĩa là Bồ-tát Quán Tự Tại khi hành sâu trí tuệ Bát-nhã, Ngài soi thấy năm uẩn đều không, liền qua hết tất cả khổ nạn. Quí vị đọc từ trước đến giờ được mấy trăm lần rồi, mà có qua hết khổ nạn chưa? Như vậy là đọc toa thuốc, chớ không phải uống thuốc. Cho nên Phật nói lời vàng lời ngọc, lời đúng sự thật, mà mình chỉ biết đọc lời đó, chớ không chịu ứng dụng tu nên không có hiệu quả. Rồi đổ thừa tu Phật không có kết quả. Lỗi ấy tại ai?

Trong kinh đức Phật dạy về trí tuệ Bát-nhã có chia làm ba phần: Văn tự Bát-nhã, Quán chiếu Bát-nhã và Thật tướng Bát-nhã. Ngài Thái Hư ở Trung Hoa ví Văn tự Bát-nhã như con thuyền, Quán chiếu Bát-nhã như chèo, dầm hay máy đuôi tôm. Thật tướng Bát-nhã như bờ bên kia. Người muốn qua sông, đến bến đò, có đò đậu sẵn, thuyền đậu sẵn. Nhưng kẻ ấy bước xuống thuyền cứ ngồi đó hoài, không chịu chèo bơi, không chịu quay máy, thì chừng nào qua tới bờ bên kia? Chắc tới thuyền mục rồi chìm luôn, chớ qua bờ không được.

Chúng ta học Văn tự Bát-nhã là học lời kinh Phật dạy. Kế đến mình phải soi, phải xem xét tức là Quán chiếu. Quán chiếu là soi sáng lại nơi thân tâm mình do ngũ uẩn gồm: sắc uẩn là đất, nước, gió, lửa tụ họp lại thành thân; rồi thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn, đó là tâm. Thân tâm này là tướng duyên hợp. Xem cho thấu đáo chỉ thấy nó là một giả tướng tạm bợ, chớ không có thật. Thấy rõ ràng như vậy, nhất định khổ ách nào cũng qua hết.

Thân đã không thật thì ai chửi có thật đâu mà nói tai nạn. Mình đã không thật thì bệnh hoạn cũng không thật. Do thấy tất cả đều không thật nên khổ nạn nào cũng qua hết, không còn bị các thứ trở ngại. Từ không bị trở ngại, chúng ta mới đến được bờ bên kia. Đó là Thật tướng Bát-nhã, là chỗ giải thoát an toàn. Như vậy người tu phải đủ ba chặng: Văn tự, Quán chiếu, rồi mới tới Thật tướng.

Bây giờ chúng ta mới chỉ có Văn tự thôi, mà đã hài lòng với chỗ Văn tự đó rồi. Thuộc lòng bao nhiêu kinh, cứ đem ra đọc lại cho Phật nghe. Giống hệt như đứa bé đi học, thuộc bài rồi trả cho thầy cho cô, xong là xếp sách lại. Như vậy làm sao chúng ta hết khổ, làm sao chúng ta qua được bờ bên kia?

Đó là chỗ chân thật mà lâu nay chúng ta quên, cứ hiểu mơ màng rồi ngỡ đọc nhiều kinh là tu giỏi. Cho nên có Phật tử đi chùa năm mười năm, mà hỏi đã hết phiền não chưa, thì chỉ bớt chừng hai chục phần trăm, còn tám chục phần trăm vẫn như cũ. Mấy cô ở chùa cũng vậy, tu mười năm, hai mươi năm, nếu hỏi hết phiền não chưa, cũng không dám nói hết.

Tại sao chúng ta tu mà không hết phiền não? Là vì không thật tình ứng dụng đúng lời Phật dạy. Bởi không ứng dụng đúng nên phiền não không sạch. Phiền não không sạch tức tội lỗi không hết. Vì vậy tu mà vẫn khổ hoài. Người đời thường nghĩ quí thầy, quí cô vô chùa thì lúc nào cũng cười, lúc nào cũng tươi vui. Nhưng có khi bất thần gặp một hai cô ngồi khóc. Đó là tại sao? Tại vì còn phiền não, nên chạm tới liền buồn, buồn mới khóc. Tu mà không hết khổ là vì tu chưa đúng, chưa đến nơi.

Qua pháp Tứ đế, chúng ta thấy rõ Phật nhắm vào nhân đau khổ, tiêu diệt nó, chớ không nói tiêu diệt quả đau khổ. Trong kinh Đại Bát Niết-bàn có bài kệ, nguyên văn chữ Hán:

Chư hành vô thường
Thị sanh diệt pháp
Sanh diệt diệt dĩ
Tịch diệt vi lạc.

Nói các hành vô thường. Các hành là thân hành động, tâm ý hành động, và tất cả sự sanh diệt của muôn vật đều gọi là hành. Các thứ đó đều vô thường, đều sanh diệt cho nên nói chư hành vô thường. Quí vị thấy như lúc chúng ta còn trẻ thì đầu xanh, rồi lật bật một thời gian nhìn lên đầu thấy vài sợi tóc bạc. Lật bật một lúc nữa, thì thấy hết phân nửa tóc bạc, chẳng bao lâu sau nhìn lên đầu như là thúng bông. Đó, vô thường chuyển biến dần dần và không bao giờ dừng lại.

Thân như vậy, tâm cũng như vậy, một dòng chuyển biến không ngừng. Muôn sự muôn vật ở trước cũng vậy. Như ngày nay chúng ta xây được căn nhà bê tông, thấy chắc biết mấy. Nhưng năm mươi năm sau nó cũng phải hư. Có cái gì không đổi dời, không biến chuyển đâu. Biết rõ như vậy thì sự vật là thật hay không thật. Nếu thật thì nó phải nguyên vẹn, không đổi thay; còn nó đổi thay thì hết thật rồi. Cho nên các hành là vô thường là pháp sanh diệt.

Như vậy muôn sự muôn vật ở trên thế gian là vô thường, là sanh diệt. Nếu là vô thường, là sanh diệt tức là đau khổ. Già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ. Chính vì vô thường đó mà đi tới bại hoại, bại hoại là đau khổ. Cho nên vô thường là nhân đưa đến quả đau khổ. Vì nó là pháp sanh diệt cho nên chúng ta không còn mãi mãi như vậy được.

Sanh diệt diệt dĩ, là sanh diệt mà diệt rồi thì tịch diệt vi lạc, tức lặng lẽ là vui. Lặng lẽ đó là Niết-bàn. Khi cái vô thường sanh tử lặng, thì Niết-bàn an lạc, tức cái vô sanh mới là an lạc chân thật. Như vậy Phật dạy chúng ta tu từ pháp sanh diệt chuyển lần đến vô sanh. Sanh diệt là đau khổ, vô sanh là an vui. Thế thì tu Phật là tìm vui hay tìm khổ? Mà muốn tìm vui thì trước phải biết khổ. Biết khổ mới tìm vui. Chớ còn ở trong khổ mà không biết khổ; trong khổ mà nghĩ là vui, thì đâu chịu bỏ khổ.

Cho nên đức Phật nói khổ để chúng ta nhận thức chín chắn cuộc đời là đau khổ, chúng ta mới cố gắng tiêu diệt nhân đau khổ. Diệt hết nhân đau khổ thì mới thật là vui. Như vậy có thể kết luận đạo Phật bi quan không? Nếu từ khổ đi tới hết khổ, thì đạo Phật là đạo diệt khổ, đưa chúng ta tới chỗ an vui. Vậy mà nhiều người mới nghe đạo Phật nói Khổ đế – cuộc đời là đau khổ – liền nói đạo Phật bi quan! Mà không ngờ nói khổ là chỉ cho chúng ta nhận thức như vậy, để phăng tìm và tiêu diệt nguyên nhân của nó thì đau khổ hết. Đau khổ hết thì được an vui vĩnh viễn, gọi là vui Niết-bàn.

Chúng ta là những hành giả đang cố gắng, đang vươn lên tới mục đích an vui giải thoát. Cũng như người leo núi, từ dưới chân núi muốn leo tới chóp núi, thì lúc đầu là khổ hay vui? Là nhọc nhằn, là khổ. Nhưng khi lên đến chóp núi rồi, ngồi yên lặng hóng gió mát liền nghe khỏe, thảnh thơi. Như vậy đang leo núi là khổ, nhưng đến chóp núi là vui. Cho nên trên đường tu, chúng ta chịu khó, chịu cực làm cho mòn, cho tan vỡ các nhân đau khổ, khi hết nhân đó chúng ta sẽ được an vui. Công phu đó gọi là tu hành.

Nhiều người nghe nói tu hành liền nghĩ méo mó là tu thì phải bị hành. Nên họ bảo vô chùa tu phải thức khuya, dậy sớm, tụng kinh ngồi thiền, phải ăn muối ớt, muối tiêu, hoặc chịu đói chịu khát, vậy mới là tu, vì tu là hành mà. Chữ tu hành nghĩa là tu phải thực hành lời Phật dạy, chớ không phải tu hành là hành phạt.

Để kết thúc bài này tôi dẫn lời Thiền sư Mãn Giác đời Lý, để nhắc cho quí vị thấy kinh Phật và lời Tổ không hai, không khác. Lúc Ngài gần tịch, Ngài làm một bài thơ:

Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tùng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai

Như vậy bài kệ trên có giống bài kệ này không? Một bên là chư hành vô thường, một bên nói Xuân khứ bách hoa lạc, xuân đáo bách hoa khai. Xuân khứ tức là mùa xuân đi rồi thì trăm hoa rụng. Mùa xuân đến thì trăm hoa nở. Như vậy hoa rụng, hoa nở, theo dòng thời gian xuân, hạ, thu, đông. Thời gian chuyển biến thì sự vật theo đó cũng chuyển biến. Thời gian là vô thường, sự vật cũng vô thường. Như vậy muôn vật trong cõi đời này đều chuyển biến như một dòng nước. Nó cứ trôi đi không dừng.

Hai câu kế Sự trục nhãn tiền quá, lão tùng đầu thượng lai. Cây cỏ hoa lá theo thời tiết đổi thay, phai tàn sanh trưởng, thì con người theo thời tiết cũng như vậy. Mới ngày nào tóc xanh, bây giờ ngó lại trên đầu tóc đã bạc rồi. Như vậy không có gì dừng lại được. Bốn câu thơ này nói lên dòng đời là một dòng sanh diệt đổi thay. Con người cũng theo đó mà thay đổi không dừng. Nhưng hai câu kết rất lý thú:

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.

Chớ bảo mùa xuân qua rồi thì hoa rụng hết, bởi vì đêm hôm ở trước sân, còn một cành mai nở trắng xóa. Hoa theo thời mà rụng, tức mùa xuân thì hoa nở, hết xuân thì hoa rụng. Đến mùa đông là mùa tàn tạ nhất. Tuy tàn tạ không còn hoa, nhưng sự thật, đừng hiểu lầm rằng không còn một hoa nào nở, vì có một cành mai nở trắng xóa trước chùa. Cành mai đó để nói lên điều gì? Để nói rằng nơi mình còn có cái chân thật. Cái chân thật đó không bị thời gian cuốn đi. Cái chân thật đó không bị vô thường sanh diệt bào mòn, nó vẫn nguyên vẹn ở nơi mình như cành mai nở vào mùa đông.

Chúng ta thấy cái nhìn của các Thiền sư đúng như cái nhìn của chư Phật. Phật nói sanh diệt diệt rồi, tịch diệt là vui. Tới chỗ lặng lẽ chân thật, cái đó không mất, cái đó mới là thật. Ở đây cũng vậy, bản thân con người, bản thân sự vật bị thời gian lôi kéo, vô thường sanh diệt; nhưng trong đó có một cái chưa bị thời gian chi phối, chưa bị tất cả pháp làm cho sanh diệt. Nó còn vẹn toàn giống như một cành mai mùa đông. Vì thế chúng ta mới tu, chớ nếu sanh diệt hết thì còn gì để tu.

Trong cái sanh diệt có cái chưa từng sanh diệt. Nhà thiền thường hay ví dụ hình ảnh hoa sen trong lửa. Trong lò lửa cháy hừng hực, mà hoa sen vẫn tươi thắm, đó là sao? Lò lửa chỉ cho thân này vô thường, cảnh đời vô thường, đổi thay giống như lò lửa đang thiêu đốt. Tuy nhiên trong đó có một cành hoa sen tươi thắm, không bị thứ gì làm cho nó khô héo hết. Đây là chỉ cho cái thật mình, nó sẵn có, vượt qua hết tất cả vô thường, tất cả sanh diệt. Do đó chúng ta mới có khả năng thắng hết, qua hết các vô thường để trở về cái chân thường chân lạc. Đó là mục đích chánh của người tu chúng ta vậy.

——————————————————————————————

Đạo Phật: đạo sự thật, đạo cứu khổ, đạo hòa bình

http://www.suoinguontinhthuong.vn/23/7/2013/dao-phat-dao-su-that-dao-cuu-kho-dao-hoa-binh.html

Mặc dầu tất cả các tôn giáo đều ca ngợi tình thương, nhưng cho đến nay, ngoại trừ Phật giáo, tất cả các tôn giáo khác đã từng có những cuộc thánh chiến đẫm máu. Riêng về Phật giáo, khoảng thế kỷ 12, đạo Hồi cũng đã tàn sát Chư tăng và triệt phá các cơ sở giáo dục của Phật giáo trong các nước nam Á, trong đó có Ấn độ và Afganistan. Tuy nhiên người ta không hề thấy có sự trả thù của Phật giáo trong vụ này. Phải chăng giáo lý đạo Phật có một tình thương chân thật, giúp cho tín đồ của họ sống hòa bình dễ dàng hơn với các tôn giáo khác?

So với các tôn giáo khác đạo Phật, với tinh thần “giác ngộ” các sự thật, là tôn giáo gần gũi nhất với khoa học. Nhất là khi cả 2 bên đều đặt nền tảng trên LUẬT NHÂN QUẢ. Nếu trong các ngành khoa học, các tôn giáo có thể ngồi lại với nhau, bằng tinh thần sự thật, thì họ cũng có thể làm được như vậy đối với đạo Phật? Vì những sự thật mà đạo Phật tuyên bố, không đòi hỏi phải có đức tin mới có thể chấp nhận được, mà chỉ cần có Trí tuệ thì đều có thể thấy được như nhau. Mỗi khi Hòa bình được đặt nền tảng trên sự thật thì hòa bình sẽ có nhiều đồng thuận và sẽ được bền bỉ nhất.

Đạo Phật cho rằng, thế gian này khổ vì ba thứ Tham, Sân, và Si, trong đó Si mê (thiếu trí tuệ) là gốc cội của tất cả. Chính vì thiếu trí tuệ (vô minh) để thấy rõ những sự thật mà con người có những suy nghĩ và hành động lầm lẫn do Tham lam hoặc Thù hận thúc đẩy để gây ra đau khổ cho mình, cho người. Thế giới không sống được trong hòa bình cũng do ba thứ Tham, Sân, Si gây ra chiến tranh. Do đó những sự thật mà con người cần chứng ngộ để chấm dứt Tham, Sân, Si, gây đau khổ cho mình, cho người, thì các nhà lãnh tụ trên thế giới cũng có thể áp dụng để chấm dứt Tham, Sân, Si gây ra chiến tranh cho nhân loại, để nhân loại luôn luôn được sống trong hòa bình.

1. Sự thật đầu tiên, mà mọi người con Phật đều phải chứng ngộ là LUẬT NHÂN QUẢ, nói rộng ra là LÝ DUYÊN KHỞI.  Đó là sự thật được dùng làm nền tảng để suy diễn ra các sự thật kế tiếp.Luật Nhân quả là một sự thật về mọi biến đổi ở trong vũ trụ. Mọi sự hình thành của vạn vật ở trong vũ trụ, vật chất cũng như tinh thần, được Đức Phật xác định qua Định đề sau đây và định đề này luôn luôn được nghiệm đúng trong mọi trường hợp:

Các Pháp do duyên sinh
Duyên diệt các Pháp diệt.

Luật nhân quả là một sự thật mà không một quyền năng thần thánh nào có thể vượt qua được. Cũng vì luật nhân quả này mà khi ta bị bệnh, ta phải đi bác sĩ hay nhà thương để họ tìm nguyên nhân chữa trị, chứ không thể ngồi cầu nguyện ai mà khỏi bệnh. (nếu có được chăng thì cũng không phải là một giải pháp có thể chấp nhận được vì kết quả chưa chắc đến 1%). Cũng vì luật nhân quả mà con người đã thiết lập nên những hệ thống công lý cho xã hội, chứ không thể căn cứ trên đức tin tôn giáo mà xét tội.

Luật nhân quả khẳng định rằng chính tư tưởng và hành động của mình định liệu hạnh phúc hay đau khổ cho mình, chứ không phải do sự ban ơn giáng hoạ của một đấng thần linh nào cả. Nếu ta làm sai thì ta phải chịu hậu quả sai. Nếu ta làm đúng thì ta được phần thưởng đúng. Nhờ hiểu được những điều căn bản này nên người Phật tử không bao giờ dám nhân danh Phật hay một đấng thần linh nào để gây khổ đau cho kẻ khác.

Người Phật tử còn được giáo dục kỹ lưỡng hơn về luật nhân quả của Tình thương. Trong những trường hợp giản dị, nếu ta tạo được hạnh phúc cho người thì người cũng sẽ tạo lại hạnh phúc cho ta. Nếu ta gây đau khổ cho người thì người cũng sẽ gây lại đau khổ cho ta. Trong tương quan này Đức Phật còn dạy thêm:

Lấy oán báo oán, oán oán chồng chất
Lấy ân báo oán, oán sẽ tiêu diệt.”

“Ân” có khả năng dập tắt “Oán” cũng như “nước” có khả năng dập tắt “lửa”, đó cũng là một luật nhân quả. Nhờ thấu hiểu những lời dạy này mà người Phật tử chân chính không nghĩ đến chuyện trả thù, vì nó chỉ gây thêm đau khổ triền miên, không phải là hành động của một người trí tuệ.

Giáo lý Đạo Phật còn đưa ra vô số gương hy sinh chịu đựng của các vị Bồ tát để nhắc nhở cho các Phật tử về sự quí giá của tình thương.  Vì tình thương có khả năng tạo hạnh phúc, cho ta cho người, trong mọi hoàn cảnh, hơn bất cứ một thứ châu báu nào trên thế gian, cho nên các vị Bồ tát (những chúng sanh có trí tuệ, những người sẽ thành Phật trong tương lai) luôn luôn gìn giữ tâm từ của mình không khác gì người giàu bảo vệ tài sản của họ.

Dầu trong những trường hợp bị cắt da xẻ thịt, họ vẫn có thể cầu nguyện sự an vui cho kẻ thù, không để lòng thù hận dấy lên làm sứt mẻ tình thương của mình. Phát triển tình thương đến độ như thế thì không còn ai có thể gây đau khổ cho ta, và sẽ an vui trong mọi hoàn cảnh. Cho nên một vị lãnh đạo có trí tuệ phải hiểu rằng, thương yêu kẻ thù không những có thể cải đổi được kẻ thù mà còn tạo hạnh phúc tức khắc cho chính mình.

2. Cuộc sống bấp bênh, thế gian VÔ THƯỜNG. Đó là sự thật thứ hai mà đa số người Phật tử thấu hiểu. Nhờ ý thức sự vô thường là không thể tránh, nên người Phật tử dễ dàng chấp nhận những đổi thay, ít đau khổ và ít tức giận mỗi khi bị mất mát. Cũng chính vì sự thật vô thường này nên Đức Phật dạy không nên quá ràng buộc vào bất cứ thứ gì, kể cả những lời dạy gọi là “chân lý” của ngài: “giáo lý ta chỉ như thuyền qua sông, đến bờ rồi phải bỏ”.

Giáo lý của Phật là giáo lý để “giải thoát” chứ không phải là giáo điều để cột buộc tín đồ. Phật chưa bao giờ tuyên bố “các ngươi phải theo ta hay tôn thờ ta. Trái lại, ngài khuyên nhủ: “Các con tự thắp đuốc lên mà đi, với chánh pháp”. Đó là lý do người Phật tử ít có sự cố chấp, ràng buộc; coi mọi giá trị, đúng, sai, tốt, xấu, chỉ có tính cách tương đối, tuỳ duyên, và tạm thời. Do đó người Phật tử dễ dàng thông cảm và “tuỳ thuận chúng sanh”. Dễ dàng sống hoà bình với các tư tưởng khác.

Chiến tranh và độc tài thường xảy ra do con người lạm dụng sức mạnh để bắt người khác phải theo những ham muốn của mình. Nếu sự ham muốn bị cản trở, người ta rất dễ tức giận và có khi trở thành độc ác, không ngần ngại trừ diệt kẻ yếu thế. Người Phật tử thấu triệt luật vô thường, biết không có một sức mạnh nào có thể tồn tại mãi mãi, lạm dụng sức mạnh để gây khổ đau cho kẻ khác cũng chính là tự sửa soạn cho mình một tương lai đau khổ. Đó không phải là hành động của kẻ có trí tuệ.

Khi một nhà lãnh tụ thấu triệt được sự thật VÔ THƯỜNG, thì ông ta cũng sẽ bớt lạm dụng quyền lực để đạt tham vọng của mình. Nhất là khi ông ta đã biết trước rằng dầu tham vọng có đạt được đi nữa thì rồi một ngày kia ông ta cũng sẽ mất hết tất cả, rồi cũng chỉ còn lại thương tiếc và khổ đau. Do đó nếu thấy điều mình ham muốn sẽ gây chiến tranh khổ đau cho người khác thì ông ta cũng sẽ dễ dàng từ bỏ.

Điều khôn ngoan hơn là: khi ta đang có khả năng hay quyền lực, thì hãy dùng khả năng và quyền lực đó để giúp đỡ kẻ khác. Đó là sửa soạn cho mình một hạnh phúc lâu dài hơn, bảo vệ sức mạnh của mình lâu dài hơn, vì đã không gieo ra những “nhân” thù hận muốn phá hoại sức mạnh của mình. Đây cũng là lý do tại sao các tôn giáo (đặt nặng về tình thương) đã tồn tại lâu hơn bất cứ một “đế quốc” nào từ xưa tới nay. 

3. KHỔ là một sự thật của cuộc đời. Đó là sự thật thứ ba mà đạo Phật luôn luôn khẳng định. Tuy nhiên đạo Phật không lìa bỏ sự khổ của thế gian để đi tìm thiên đàng ở một thế giới khác. Trái lại đạo Phật nhìn nhận “đời là khổ” để tìm “nguyên nhân của sự khổ” để tận diệt những nguyên nhân đó, để đạt được Niết bàn ngay trên thế gian khổ đau này. Đó là điểm rất tích cực của đạo Phật đối với sự khổ.

Cho nên đạo Phật không phải là đạo bi quan tiêu cực như nhiều kẻ “yêu đời” kết án. Sự khẳng định sự thật khổ của cuộc đời làm cho Đạo Phật càng thêm yêu đời chứ không phải để chán đời. Sự chán đời chỉ để dành cho những kẻ “yêu đời” bị thất vọng khi họ phải đối diện với sự thật khổ mà họ đã không tin từ trước. Chứ mỗi khi đã chấp nhận “đời là khổ” thì sẽ bớt đòi hỏi cuộc đời và sẽ yêu thương và lo lắng cho cuộc đời nhiều hơn. Đó cũng như những người biết quê hương mình nghèo khổ nên biết lo lắng và yêu thương quê hương mình hơn.

Khi công nhận “đời là khổ” chắc chắn người Phật tử có khả năng chịu đựng sự khổ hơn bất cứ ai. Đó cũng như một bác nông phu có khả năng chịu đựng khổ đau hơn bất cứ nhà triết lý hay các nhà tôn giáo nào. Tuy nhiên đạo Phật không phải là một bác nông phu hay một người dân quê nghèo nàn ít kiến thức, mà là một đạo có trí tuệ, hiểu biết LUẬT NHÂN QUẢ, biết rằng mọi vấn đề đều phải có nguyên nhân của nó và phải có cách để cắt đứt những nguyên nhân để không cho xảy ra sự kiện.

Do đó đạo Phật là tôn giáo độc nhất trên thế gian này có 4 CHÂN LÝ VI DIỆU (4 Noble Truths) phân tích rõ ràng về sự Khổ, phân tích rõ ràng về Nguyên nhân của Khổ, phân tích rõ ràng về Niết bàn, lúc khổ được tận diệt, và phân tích rõ ràng về Con đường đi đến Niết bàn. Cho nên sự cứu khổ thế gian của đạo Phật giống như sự chửa bênh của một ông bác sĩ thông thái, hiểu rõ về bệnh, hiểu rõ nguyên nhân của bệnh, hiểu rõ sự lành bệnh, và hiểu rõ về cách chửa bệnh.  Chứ không phải như những ông lang băm, chữa bệnh mà không biết nguyên nhân của bệnh. Một nhà lãnh tụ nếu có sự hiểu biết về 4 CHÂN LÝ VI DIỆU chắc chắn sẽ không là một kẻ gây ra đau khổ cho thế gian.

4. Sự thật thứ tư là sự thật VÔ NGÃ. Đây là sự thật rốt ráo nhất mà người Phật tử cần giác ngộ để chấm dứt hoàn toàn khổ đau. Nếu các lãnh tụ trên thế giới cũng giác ngộ được sự thật này thì có lẻ chiến tranh sẽ không còn tồn tại trên quả đất này. Vì không còn sự xung đột giữa các phe nhóm quốc gia, hay tôn giáo.

Sự thật VÔ NGÃ nói rằng cái gọi là “TA” chỉ là một ảo tưởng (illusion) không thực có. Đây là một sự thật rất khó tin, khó lãnh hội, vì nó trái ngược lại với những hiện tượng “Ngã” mà ai cũng thấy hằng ngày. Sự thật VÔ NGÃ càng khó tin hơn chuyện ngày xưa khi ông Galileo tuyên bố với đức Giáo Hoàng về sự thật “quả đất đi quanh mặt trời” chứ không phải “mặt trời đi quanh quả đất”.

Tuy nhiên, một người trí tuệ có thể giác ngộ sự thật vô ngã qua sự khảo sát chính mình từ ngoài vào trong,  bằng tinh thần khách quan của một nhà khoa học. Phương cách khảo sát này đạo Phật gọi là TỨ NIỆM XỨ.  Khi thực hành TỨ NIỆM XỨ trước hết ta sẽ khám phá ra rằng “Ta” hoàn toàn được tạo thành bởi những thứ “không ta”. Những thứ “không ta” tạo nên ta và tạo nên sự sống của ta. Ví dụ NƯỚC, ví dụ MẶT TRỜI. Không thực sự có một biên giới giữa “ta” và “không ta”.

Ta thật sự không là chủ nhân của bất cứ thứ gì, ngay cả cái thân xác của mình. Bởi thế dầu ta không muốn bị già thân vẫn cứ già, dầu ta không muốn bị bệnh thân vẫn bệnh, dầu ta không muốn chết, thân vẫn cứ chết. Tất cả những gì gọi là của ta đều là của bên ngoài và luôn luôn biến đổi theo nhân duyên với những thứ bên ngoài khác. Cho nên khi khảo sát cho thật kỹ những gì gọi là của ta thì sẽ giác ngộ ra rằng “Ta không có gì cả”, “Ta không là bất cứ thứ gì cả”. Mà khi ta không là gì cả thì không còn ai chịu sinh, lão, bệnh, khổ.

Trong trí tuệ vô ngã, ta có thể chứng nghiệm “Ta ở ngoài tất cả”.  Đó gọi là giải thoát tuyệt đối. Vì ở ngoài tất cả cho nên ta có khả năng thấy được tất cả. Như vậy chính xác thì phải nói rằng “Ta thấy mọi cảm thọ, chứ không phải ta cảm thọ”. Điều đó có nghĩa là “ta thấy sự khổ đau” chứ không phải “ta khổ đau”. Đó là lý do Niết bàn (chấm dứt sự khổ) của đạo Phật có thể hiện diện ngay trong sự Khổ.

Trên quan điểm hòa bình cho thế giới thì một nhà lãnh tụ ít lắm cũng cảm nhận được sự thật VÔ NGÃ qua sự thật: Quả đất chưa hề có lằn ranh ngăn cách giữa các quốc gia. Như vậy thì tại sao loài người lại tự ngăn cách nhau để rồi trở thành ích kỷ và tranh giành, để sinh ra chiến tranh?

Đúng ra, mọi con người đều phải là “công dân chung của cả thế giới” (world citizen). Tất cả quả đất đều phải là quê hương rộng lớn của ta. Nếu ta không phải là kẻ tội phạm, ta phải có quyền đi lại bất cứ nơi đâu trên quả địa cầu thân yêu này. “Quyền công dân thế giới” phải được công nhận ít lắm là cho các nhà khoa học, các thương gia, các kỷ nghệ gia, các nhà lãnh tụ, không có tinh thần kỳ thị chủng tộc, vì họ đã làm lợi ích cho toàn thể nhân loại.

Nếu lãnh tụ các quốc gia có trí tuệ “Vô Ngã” thì tinh thần ích kỷ quốc gia sẽ giảm bớt, sẽ không lạm dụng sức mạnh của mình để lấn áp các quốc gia khác. Với tinh thần Vô Ngã họ sẽ thương yêu và xây đắp hoà bình, an vui, phồn thịnh, cho các dân tộc láng giềng như cho chính dân tộc của mình. Họ có thể dễ dàng đồng thuận với Liên Hiệp Quốc thành lập một chính phủ chung cho toàn thể nhân loại.

Khi cả thế giới đều đã sống chung trong một đại gia đình để không còn biên giới giữa các quốc gia, thì thế giới sẽ hết cảnh các nước lớn tham lam ăn nuốt các nước nhỏ. Các nước nhỏ do đó cũng sẽ hết sân hận thù hằn các nước lớn. Những phí tổn lớn lao cho chiến tranh, cho quân đội, sẽ đem dùng cho các mục tiêu Hòa bình. Toàn nhân loại sẽ cùng cộng tác Trí tuệ tài lực để chấm dứt sự đói nghèo và bệnh hoạn ở trên quả đất này.

Quả đất do đó sẽ thành chốn “địa đàng” cho tất cả mọi dân tộc. Đó là nguồn hạnh phúc lâu bền mà các vị lãnh đạo có thể tạo dựng cho các con cháu sau này. Đó là một nguồn hạnh phúc lớn lao và có ý nghĩa hơn bất cứ một “đế quốc” nào có thể ban cho. Đó là nguồn hạnh phúc thuần khiết không gây ra đau thương và hận thù với các quốc gia khác.

Les commentaires sont fermés.