Bát Kính Pháp

Phần IX: Bát Kính Pháp
(S. Guradharmā [1]; P. Aṭṭha Garudhammā
Chỉ áp dụng cho Tỳ-kheo-ni)
*******

Tôi đã khảo sát các giới của Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni trong các phần trước. Hơn nữa, cả Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều có một số giới chỉ áp dụng cho riêng họ. Như Tỳ-kheo thì có tụ Bất Ðịnh Pháp đã được trình bày ở trên. Các giới mà đặc biệt chỉ áp dụng cho Tỳ-kheo-ni thì không thể nói là do chính họ mà các giới này được chế định, tôi sẽ bàn thảo sau. Các điều luật ấy được biết như Bát Kính Pháp. Bát Kính Pháp có nội dung hầu như giống nhau trong hai bộ Luật tiếng Hoa và Pāli, mặc dù chúng có thứ tự khác nhau. Trong kinh Pāli, Kinh Gotamī [2] và Cullavagga [3] cả hai đều nói đến việc chế định Bát Kính Pháp và câu chuyện xuất gia của di mẫu Ma-ha-ba-xà-ba-đề (Mahāpajāpatī Gotamī – bà vừa là dì, vừa là kế mẫu của đức Phật).[4] Sau 5 năm đức Phật thành đạo,[5] đức Phật nhận lời thỉnh cầu của di mẫu Ma-ha-ba-xà-ba-đề và đoàn tuỳ tùng của Bà, Ngài viếng thăm Vườn Cây Banyan ở Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavastu). Di mẫu Ma-ha-ba-xà-ba-đề xin đức Phật cho phép Bà xuất gia. Đức Phật từ chối ba lần nhưng không giải thích lý do tại sao, rồi đức Phật đi đến Tỳ-xá-li (Vesālī). Di mẫu và đoàn tuỳ tùng buồn bã khóc lóc. Tuy buồn bã nhưng cả đoàn quyết chí chọn đời sống của người xuất gia, dù không có sự chấp thuận của đức Phật, họ đã cạo đầu và đắp y vàng. Bà Ma-ha-ba-xà-ba-đề và đoàn tùy tùng đi theo đức Phật từ Ca-tỳ-la-vệ đến nơi đức Phật dừng chân là Tỳ-xá-li.

Di mẫu Ma-ha-ba-xà-ba-đề và đoàn tùy tùng đang đứng bên ngoài giảng đường Đại Lâm (Mahāvana) gần Tỳ-xá-li, họ gặp Tôn giả Ānanda – người bà con của đức Phật. Tôn-giả Ānanda vô cùng thương cảm khi thấy di mẫu Ma-ha-ba-xà-ba-đề đứng bên ngoài giảng đường buồn bã đẫm lệ với đôi chân sưng phồng và thân thể rũ rượi vì đi bộ. Tôn giả quyết định thuyết phục đức Phật để giúp di mẫu Gotamī. Dù đức Phật đồng ý cho phụ nữ gia nhập Tăng đoàn, nhưng Ngài quy định rằng phụ nữ phải tuân theo Bát Kính Pháp. Di mẫu Gotamī chấp nhận và trở thành Tỳ-kheo-ni đầu tiên trong Phật giáo. Luật Tạng tiếng Hoa cũng giải thích chi tiết về việc xuất gia của di mẫu Ma-ha-ba-xà-ba-đề và việc chế định Bát Kính Pháp giống như vậy.[6] Bát Kính Pháp được dịch sang tiếng Hoa là pa pu k’o wei fa (bát bất khả quá pháp) [7] nghĩa là “Tám Điều Luật không được vi phạm.” Bát Kính Pháp được trình bày như dưới đây:

Người dịch mặc ước như sau: Số La-tinh là thứ tự của Bát Kính Pháp, kế đến là nội dung [8] và cuối cùng là số thứ tự tương đương của giới Ba-dật-đề nếu có. [9]

1. Tỳ-kheo-ni dù trăm năm tuổi hạ cũng phải tôn kính, chào hỏi, xá bái một vị Tỳ-kheo dù mới thọ giới một ngày. Tỳ-kheo-ni phải tuân giữ tôn kính giới này suốt đời không được vi  phạm [175].

2. Tỳ-kheo-ni không được trách mắng hoặc sỉ vả các sai lầm, hoặc các tà kiến, phẩm hạnh, nuôi mạng sống của các Tỳ-kheo bằng bất cứ cách nào. Tỳ-kheo-ni phải tuân giữ tôn kính giới này suốt đời không được vi  phạm [145].

3. Tỳ-kheo được phép rầy la các Tỳ-kheo-ni, chứ Tỳ-kheo-ni  không được phép rầy la một vị Tỳ-kheo. Tỳ-kheo-ni phải tuân giữ tôn kính giới này suốt đời không được vi  phạm.

4. Thức-xoa muốn thọ giới phải đến cầu xin nhị bộ Tăng Ni. Tỳ-kheo-ni phải tuân giữ tôn kính giới này suốt đời không được vi  phạm. [giống với giới 124 hay giới thứ 126].

5. Tỳ-kheo-ni phạm giới Tăng-già-bà-thi-sa hành pháp Ma-na-đoả [10] nửa tháng trước nhị bộ Tăng Ni.  Tỳ-kheo-ni phải tuân giữ tôn kính giới này suốt đời không được vi  phạm.

6. Mỗi nửa tháng Tỳ-kheo-ni phải cầu giáo giới   chư Tăng. Tỳ-kheo-ni phải tuân giữ tôn kính giới này suốt đời không được vi  phạm [141].

7. Tỳ-kheo-ni không được an cư ở một trú xứ không có Tỳ-kheo. Tỳ-kheo-ni phải tuân giữ tôn kính giới này suốt đời không được vi  phạm [143].

8. Sau an cư, Tỳ-kheo-ni phải đến nhị bộ Tăng Ni cầu xin tự tứ (trình 3 việc: thấy, nghe, nghi). Tỳ-kheo-ni phải tuân giữ tôn kính giới này suốt đời không được vi  phạm [142].

Theo như sự trình bày ở trên, chúng ta thấy sáu giới (1, 2, 4, 6, 7 và 8) giống hay tương tự với các giới ở tụ Ba-dật-đề (175, 145, 124 hay 126, 141 và 142) trong Tứ Phần Luật. Như tôi đã trình bày trong phần giới thiệu, một số học giả, nhà nghiên cứu Phật giáo và các hành giả thường cho rằng vị trí phụ nữ trong Phật giáo thể hiện qua phần Bát Kính Pháp.

Anne Bancroft nói: “Ngày nay người ta tranh luận gay gắt về Bát Kính Pháp có phải thật sự là do đức Phật chế định hay do các vị Tăng thêm vào sau này. Tám điều luật này thật là quá vô lý, và khó có thể tưởng tượng được đức Phật đã chấp nhận khả năng chứng quả A-la-hán của phụ nữ lại nói như vậy. Ngay cả đến ngày nay Bát Kính Pháp đã và đang tiếp tục đóng vai trò chính trong cách ứng xử của Tỳ-kheo-ni đối với Tỳ-kheo.”[11]

Nancy Schuster Barnes viết: “Bát Kính Pháp được nói là do đức Phật chế định khi Ngài thành lập Ni đoàn là quá đáng và quá áp đặt.”[12]

Gross nói: “Tuy nhiên, chư Ni bị yêu cầu phải chấp nhận tám giới đặc biệt như là điều kiện cần để được gia nhập Tăng đoàn; tám giới này đặt Ni đoàn dưới Tăng đoàn.”[13]

“Nhiều người thích cho rằng thái độ tiêu cực của đức Phật đối với Ni đoàn là ý tưởng được thêm vào sau này, điều đó thể hiện khuynh hướng của các đệ tử trong giai đoạn sau bảo thủ hơn.”[14]

Susan Murcott cũng nói: “Tám Giới Đặc Biệt được thừa nhận như là điều tiên quyết đối với việc xuất gia của phụ nữ, có lẽ chúng là bức tường để ngăn chặn tính liều lĩnh có thể phát sinh trong tương lai. Nhưng Tám Giới Đặc Biệt này rõ ràng đặt phụ nữ ở vị trí thứ hai. Di mẫu Ma-ha-bà-xà-ba-đề chấp nhận các điều luật này để đạt được mục đích tối cao của bà là thành lập Ni đoàn.”[15]

Dhamacharini Sanghadevi vạch ra rằng: “Cuối cùng đức Phật đã đồng ý phụ nữ có thể xuất gia, nhưng họ phải chấp nhận Bát Kính Pháp (Garudhammā), mà trên thực tế Bát Kính Pháp khẳng định là Ni đoàn không những bị thua thiệt đối với Tăng đoàn mà còn bị lệ thuộc vào Tăng đoàn nữa.”[16]

Lorna Devaraja cũng nói: “Giá phải trả cho sự xuất gia của các Tỳ-kheo-ni là phải chấp nhận Tám Ðiều Luật (Aṭṭha Garudhammā) bất công, tất cả các điều luật này nhằm đưa vị trí của nam giới lên. Điều thứ nhất nói rằng Tỳ-kheo-ni dù trăm tuổi hạ cũng phải tôn kính, đứng dậy vái chào một vị Tăng dù vừa mới thọ giới.”[17]

Tuy nhiên, bảng liệt kê ở trên đã vạch ra sự không ăn khớp của Bát Kính Pháp với câu chuyện thành lập Ni đoàn và cách trị phạt các tội thuộc Ba-dật-đề. Roykan Nagasaki tranh luận rằng dù Bát Kính Pháp là những điều luật quan trọng nhất cho bất cứ phụ nữ nào muốn xuất gia đều phải tuân giữ, nhưng các điều luật này được đức Phật chế định ra khi di mẫu Ma-ha-ba-xà-ba-đề xuất gia thì rất hồ nghi, vì lúc bấy giờ Ni đoàn chưa thành lập, và sáu giới quy định cho một vị Thức-xoa-ma-na phải tuân giữ và tu tập trong 2 năm chưa có chế định. Tuy nhiên, các vấn đề này lại được đề cập trong 4 điều (4, 5, 6 và 8) của Bát Kính Pháp. Dường như Bát Kính Pháp có lẽ được thêm vào sau khi thành lập hai bộ Tăng Ni.” [18]

Sư Cô Hae-ju Chun, vừa là Tỳ-kheo-ni và cũng là giảng viên của trường đại học Tonguk tại Seoul, Triều Tiên chứng minh có 6 điều luật (1, 2, 4, 6, 7 và 8) trong Bát Kính Pháp thuộc các giới trong tụ Ba-dật-đề của Tỳ-kheo-ni, vì các giới trong Bát Kính Pháp tương tự hay giống như các giới  trong tụ Ba-dật-đề. Chúng ta có thể so sánh sự khác nhau trong cách trị phạt của Bát Kính Pháp với cách trị phạt trong Ba-dật-đề. Vi phạm Bát Kính Pháp thì người nữ không được xuất gia, Bát Kính Pháp phải được tuân giữ suốt cuộc đời của Tỳ-kheo-ni. Tuy nhiên, các điều luật Ba-dật-đề (175, 145, 124, hay 126, 141, 143, 142) chỉ yêu cầu sám-hối, vì các tội này của Tỳ-kheo-ni được xem như là vi phạm “giới nhỏ.” Dựa trên mức độ khác nhau quá nhiều của các tội giữa Bát Kính Pháp và các giới Ba-dật-đề, Sư Cô đã khẳng định có lẽ Bát Kính Pháp được thêm vào sau này.” [19]

Điều luật thứ nhất trong Bát Kính Pháp dường như không có trong Luật Tỳ-kheo-ni Pāli. Tôi không tìm ra điều luật này trong văn học Pāli, nhưng nó được lập lại ở giới 175 thuộc tụ Ba-dật đề của Tỳ-kheo-ni trong Tứ Phần Luật   tiếng Hoa.  Ðiều luật thứ nhất trong Bát Kính Pháp thường được  mọi người  đem ra để tranh luận về vị trí của phụ nữ trong Phật giáo. Có lẽ nó được các soạn giả thêm vào trong Giới Bổn tiếng Hoa, họ muốn thêm vào kinh điển những ý tưởng không tốt đối với phụ nữ. Đề cập về điều luật này tôi hồ nghi rằng trong thời đức Phật các vị Tỳ-kheo vừa mới thọ giới lại có được tám phẩm hạnh[20] có thể nhận sự tôn kính từ nhiều vị trưởng lão Tỳ-kheo-ni đã chứng A-la-hán  hay không.

Nancy Auer Falk khẳng định: “Rõ ràng đầu dây mối nhợ của mọi chuyện là do Bát Kính Pháp đặt chư Ni dưới quyền điều khiển của chư Tăng. Ðiều này ám chỉ là chính đức Phật đã không đồng ý thành lập Ni đoàn để cho phụ nữ xuất gia.  Nếu chúng ta tin theo lời khẳng định của đức Phật là phụ nữ có khả năng chứng đạt quả A-la-hán, thì câu chuyện này có thể là một sự lừa gạt, vì nó không được xếp vào loại văn học Phật giáo thời kỳ đầu, nhưng lại được lưu hành rộng rãi như là câu chuyện đáng tin cậy về việc thành lập Ni đoàn, vì vậy câu chuyện ấy ắt hẳn đã là bóng đêm phủ trùm lên mọi nỗ lực của chư Ni.” [21]

Như tôi đã cố gắng minh hoạ ở trên, mục đích đầu tiên của đức Phật hoàn toàn khác. Tính không nhất quán của các điều luật về phương diện tình thương và sự hiểu biết dành cho chư Ni như đã được diễn tả trong các giới chế định, cũng như các yêu cầu quá khắc khe của Bát Kính Pháp thì khó mà chấp nhận được.

Tôi hoàn toàn nhất trí với Harikawa: “Bát Kính Pháp có 8 điều. Theo Bhikkhunīkhandaka [S. Bhikṣunī-skhandhaka] (Kiền-độ cho Tỳ-kheo-ni), khi đức Phật chấp thuận  lời cầu xin xuất gia của di mẫu Ma-ha-ba-xà-ba-đề để trở thành Tỳ-kheo-ni, Ngài cũng chế định Bát Kính Pháp. Tuy nhiên, nội dung của Bát Kính Pháp cho thấy rằng các điều luật này thật sự được chế định sau này.” [22]

Như Harikawa tuyên bố, tôi tin rằng chỉ có một cách giải thích hợp lý là Bát Kính Pháp được thêm vào sau này. Bằng chứng có sức thuyết phục mạnh mẽ nhất cho cách giải thích này là nhiều điểm quá khác nhau về cách trị phạt các tội Ba-dật đề và Bát Kính Pháp. Phạm giới Ba-dật-đề chỉ có sám-hối, trong khi đó Bát Kính Pháp buộc Tỳ-kheo-ni phải tuân giữ suốt đời .

——————————————————————————–

[1] Các học giả dịch từ Gurudharmā bằng nhiều cách khác nhau: Tám Giới Ðặc Biệt, Tám Giới Phụ, Tám Điều Kiện Quan Trọng, Tám Giới Lớn, Tám Giới Chủ Yếu,Tám Ðiều Luật Ðặc Biệt, Tám Giới Chính, Tám Giới. Tôi thích cách dịch “Tám Giới.”

[2] The Book of the Gradual Sayings (Aṅguttara-Nikāya), Vol. IV (London: P.T.S.), pp. 181-5.

[3]  Sacred Buddhist Books. Tập. XX, pp. 352 – 6, hoặc Ðại Chánh Tạng, Tập XXII, pp. 922-3.

[4] Câu chuyện xuất gia của di mẫu Mahāpajāpatī trong một số bản luật có vài điểm khác nhau nhưng căn bản là giống nhau, ngoại trừ một vài chi tiết quan trọng.

[5] Horner, Women Under Primitive Buddhism, p. xxii.

[6] Ðại Chánh Tạng, Tập XXII, pp. 922-923.

[7] Sách đã dẫn, p.923.

[8] Sách đã dẫn, Tập XXII, pp. 646, 649, 923, 1045 và Tập XXIII, p. 345.

[9] Ryokan Nagasaki, “A Study on the Ordination of Mahāpajāpatī Gotamī Bhikṣuṇī,” in The Journal of Indian and Buddhist Studies. Vol. 52 (Tokyo: University of Tokyo, 1978), p. 656. Nagasaki so sánh Bát Kính Pháp của Luật Pāli với Bát Kính Pháp của các bộ Luật khác. Còn tôi thì so sánh Bát Kính Pháp với các  giới trong phần Ba-dật-đề dựa trên Luật Tứ Phần  tiếng Hoa.

[10] Xem cước chú 16 phần Tăng-già-bà-thi-sa.

[11] Anne Bancroft, “Women in Buddhism,” Women in the World’s Religions, ed. Ursula King (New York: Paragon House Publishers, 1987), p. 83.

[12] Nancy Schuster Barnes, “Buddhism,” in Women in World Religions, ed. Arvind Sharma (Albany: State University of New York Press, 1987), p. 107.

[13] Gross, p. 9.

[14] Sách đã dẫn, p.33.

[15] Murcott, p. 17.

[16] Dharmacharini Sanghadevi, “The History of the Ordination of Women in Buddhism,” in Dakini Issue 7, Summer 1991 (Glasgow: Ink Print and Design, 1991), p. 4.

[17] Heidi Singh, “The Value of Precepts,” in Sakyadhītā: International Association of Buddhist Women Vol. 4, No. 1 (Honolulu: Sakyadhita, 1993), p. 7.

[18] Nagasaki, p. 656.

[19] Hae-ju Chun, “A View of Women in Buddhism” in The Dharma Newspaper (Pubpo Sinmun) Nov. 16, 1992, p. 8.

[20] Bậc thánh đã chứng quả A-la-hán. Ðây là quả thánh  tối cao của Phật giáo Thương Toạ Bộ. Trong Trưởng Lão Ni Kệ (Therīgāthā) có 73 bài kệ của các vị Trưởng Lão Ni. Nhiều Tỳ-kheo-ni đã chứng quả A-la-hán trong thời đức Phật còn tại thế.

[21] Falk, p. 162.

[22] Hirakawa, p. 37.

—————————————————————————————————-

BÁT KỈNH PHÁP – HT. Thích Minh Thông
Một trong những vai trò phục hưng xã hội và cách mạng văn hóa của Đức Phật, điều mà đôi khi bị các sử gia lãng quên, đó là giải phóng phụ nữ.  Đức Phật phát huy một cuộc cách mạng trong tư tưởng và trong lối cảm xúc của đại chúng bằng cách công khai và can đảm tuyên bố rằng người nữ có thể đạt đến mức tiến bộ tuyệt đỉnh, thành tựu trí tuệ thâm sâu dẫn tới Niết bàn.

Tuyên ngôn này đã gây một biến động lớn lao trong giới tôn giáo thời bấy giờ vì đó là trực tiếp đương đầu với niềm tin đã ăn sâu vững chắc trong dân gian. Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni (*), nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo cũng như các trường phái tư tưởng được biết trước và ngay thời Đức Phật.


Thập sư Ni hướng dẫn giới tử thọ Tỳ kheo Ni
tiến vào Tổ đình Long Thiền cầu pháp đại Tăng

Cho nên có thể nói rằng hàng phụ nữ trên thế giới vẫn chịu một món nợ trường cửu đối với Đức Phật vì Ngài đã nâng cao họ từ địa vị thấp kém và nhục nhã nhất trong xã hội lên hàng danh dự này.
Thế nhưng, cũng chính sự việc thành lập giáo hội Tỳ kheo ni mà người nữ xuất gia giữa thời đại tiến bộ hiện nay lại miễn cưỡng trong niềm hạnh phúc lớn lao đó, vì họ ngờ vực Đức Phật chưa thực sự triệt để trong việc nâng cao vị trí của họ ngang hàng danh dự với nam giới, đã chế ra tám điều cần phải cung kính. Tám điều kiện ấy có thực sự quan trọng làm tăng ích cho giáo hội Tỳ kheo ni tồn tại hay chỉ có tính khả thi trong hoàn cảnh xã hội đương thời?

Tưởng cần nhắc lại sự việc thành lập giáo hội Tỳ kheo ni và nguyên nhân Đức Phật chế ra tám điều kiện cần phải cung kỉnh. Sau khi vua Suddhodana (Tịnh Phạn) băng hà, bà Mahà Pajàpati Gotami (Ma Ha Ba Xà Ba Đề – Kiều Đàm Di) nhàm chán sự giả tạm của kiếp phù du, quyết định trở về nương tựa đời sống xuất gia giải thoát. Một lần, khi Đức Phật về lại kinh thành Kapilavattu (Ca Tỳ La Vệ) để giảng hòa một cuộc tranh chấp dữ dội giữa hai dân tộc Sakyan và Koliyan, đang giành quyền sử dụng nước của dòng sông Rohini.

Sau khi cuộc cãi vã cay đắng đã được dàn xếp ổn thỏa và hai bên dịu giọng, như thường lệ, Đức Thế Tôn mở lời thuyết giảng giáo pháp, và sau thời pháp đó một số đông người trai trẻ Sakyan xin gia nhập vào giáo hội chư Tỳ kheo. Các bà vợ của những vị ấy, do bà Mahà Pajàpati Gotami hướng dẫn đến chỗ Đức Phật khẩn khoản xin được xuất gia: “Bạch Đức Thế Tôn, thật là một đại hạnh cho nữ giới nếu hàng phụ nữ chúng con được chấp nhận gia nhập vào Tăng đoàn để khép mình trong khuôn khổ của giáo pháp và giới luật mà Ngài công bố”. Đức Phật  không sẵn sàng khích lệ thỉnh nguyện của bà Gotami và trả lời: “Đủ rồi, này Gotami, Như Lai không thể làm vừa lòng bà và chấp nhận như vậy”.

Lần thứ nhì, rồi lần thứ ba, bà Gotami lặp lại lời thỉnh cầu, nhưng mỗi lần đều bị từ chối. Sau đó Đức Thế Tôn lần hồi sang thành Vesali (Phệ Xá Ly) và ngự trong một đền thờ trên đỉnh núi. Bà Gotami vẫn không nao núng ngã lòng vì những đợt thỉnh nguyện bất thành, mà bền gan cam chịu mọi khổ nhọc và đương đầu nghịch cảnh, quyết định theo chân Đức Thế Tôn đến Vesali cùng với một số đông mệnh phụ phu nhân có niềm tin nơi bà (có nơi nói cùng với 500 người nữ giòng họ Xá Di).

Cắt bỏ chùm tóc đẹp thuở nào, vứt bỏ nữ trang lộng lẫy, tự khoác lên mình tấm y thô thiển, các bà cam chịu khổ nhọc đi bộ, trải qua đoạn đường dài 150 dặm đến Vesali, mình mẩy lấm lem bụi bặm, y phục rách rưới tả tơi, chân cẳng sưng vù đau nhức. Thế mà, ba lần kiên nhẫn nhờ thầy thị giả A Nan tha thiết trình bày nguyện vọng, Đức Phật vẫn một mực chối từ.

Song, dưới sự nài nỉ nồng nhiệt của Tôn giả A Nan, sự tinh tế chọn điểm tế nhị là vấn đề biết ơn đối với Di mẫu Gotami và đặc biệt là gợi mở khả năng của người nữ có thể chứng nhập bốn quả Thánh nên Đức Phật đã thuận lòng.

Tuy nhiên, với trí tuệ nhìn xa và hiểu rộng, Đức Thế Tôn có thể thấy những hiểm họa và những khuyết điểm không thể tránh trong việc điều hành song song hai giáo hội Tăng già cùng một lúc. Do đó, Ngài ban hành tám điều qui định cho giáo hội Tỳ kheo ni nhằm giữ gìn và bảo vệ tương lai cho cả hai giáo hội.

1  Một Tỳ kheo ni, dầu có trăm tuổi hạ khi gặp thầy Tỳ kheo mới thọ giới Cụ túc cũng phải chào hỏi, đảnh lễ và thực hành tất cả những bổn phận thích nghi đối với vị Tỳ kheo.

2- Một Tỳ kheo ni không được khiển trách hay nặng lời đối với một vị Tỳ kheo trong bất kỳ trường hợp nào.

3- Tỳ kheo ni không được ngăn Tỳ kheo xét tội, thuyết giới, tự tứ hay nói lỗi của Tỳ kheo. Trái lại, Tỳ kheo được quyền cử tội Tỳ kheo ni.

4- Muốn thọ trì Cụ túc giới phải thông qua hai bộ Tăng: Tỳ kheo ni và Tỳ kheo

5- Nếu Tỳ kheo ni phạm tội hữu dư (Tăng tàn) thì phải đến trước hai bộ Tăng thực hành pháp Ý hỷ (Ma na đỏa) trong thời gian nửa tháng.

6- Nửa tháng phải đến bên Tỳ kheo tăng cần cầu dạy bảo.

7- Không được an cư kiết hạ ở địa phương nào không có Tỳ kheo ở.

8- Khi an cư xong, phải đến Tỳ kheo tăng cầu ba sự tự tứ: thấy, nghe và nghi.

Tôn giả A Nan trao truyền lại tám điều giới pháp ấy cho bà Mahà Pajàpati Gotami. Bà vui mừng khôn xiết, hoan hỷ lãnh thọ và nguyện kính giữ trọn đời không vi phạm. Sau khi giáo hội Tỳ kheo ni thành lập dưới sự lãnh đạo của bà Gotami – Đại Ái Đạo, từ các nẻo đường cuộc sống, mọi tầng lớp trong xã hội đến gia nhập vào giáo hội và công trình nỗ lực tiến tới mục tiêu giải thoát hoàn toàn của các bà đã để lại trong văn học Phật giáo những trang vẻ vang chói lọi bằng khúc ca khải hoàn, Therigàthà (những Thánh thi của chư Tỳ kheo ni).

Không còn nghi ngờ gì nữa về sự ra đời và tồn tại đến nay của giáo hội Tỳ kheo ni khắp nơi trên thế giới. Chúng ta thấy được tuệ giác gì nơi Đức Phật khi năm lần bảy lượt Ngài mới tán thành việc thành lập giáo hội Tỳ kheo ni và đặt chế tám điều kiện trước khi cho ra đời thêm một giáo hội nữa? Sự kiện Đức Phật thông hiểu tiềm năng sâu ẩn và khả năng hoàn mãn những thành tựu vĩ đại và cao thâm của hàng phụ nữ không làm cho Ngài mù quáng không thấy những khuyết điểm về kết cấu tâm sinh lý của người nữ.

Khuynh hướng nhẹ dạ yếu mềm của người nữ dễ dàng rơi vào tội lỗi, dễ bị khuyến dụ đi trên con đường kém đạo Đức. Chính điểm đặc thù ấy là một trở ngại lớn lao cho phẩm hạnh cốt yếu của người sống độc thân, vốn dĩ rất cần thiết cho sự điều hành suôn sẻ của một cộng đồng. Đó là thiên tánh. Đức Phật vạch rõ yếu kém và khuyết điểm của hàng phụ nữ không phải để chế nhạo hay cười khinh, mà Ngài nhắm đến mục tiêu cao quý là giúp họ nhận định những khó khăn gây trở ngại cho những nỗ lực thành tựu mục tiêu của mình và khuyến khích họ thận trọng canh phòng các cuộc tấn công của những khát vọng, các cuộc đột kích của những cám dỗ.

Đức Phật không vì sự trở ngại đó mà không tạo điều kiện cho họ vượt lên ngang hàng với vị trí mà nam giới có thể tới, chứng đắc quả giải thoát. Song, thái độ do dự trước khi chấp nhận người nữ vào giáo pháp là hồi chuông cảnh báo con đường tiến bộ của họ đầy dẫy sự hiểm nguy và ảnh hưởng đến sự tồn vinh Phật pháp.

Rõ ràng trong thiên tánh người nữ đã không thể so sánh với người nam, mặc dù dù khả năng tiến bộ và thành tựu mục tiêu Niết bàn có ngang nhau. Nhưng làm sao để người nữ luôn khắc ghi sâu vào lòng bài học tự mình uốn nắn tâm tánh, diệt trừ bản ngã mãnh liệt để thành đạt mục tiêu tối hậu là một công trình vĩ đại, là thành trì phải được bảo vệ kiên cố hơn người nam tiến tu gấp nhiều lần. Làm sao để người nữ xuất gia luôn thấy rằng việc thành lập cho giáo hội Tỳ kheo ni sở dĩ thành tựu là từ sự có mặt vững chãi trước đó khoảng 20 năm của giáo hội Tỳ kheo (Căn bản tạp sự – Q.37, Kinh Trường A Hàm) làm điểm tựa.

Làm thế nào để Tỳ kheo ni hiểu rằng sự thành lập giáo hội của họ từ giai đoạn sơ khai đã mang theo với nó một vài yếu tố hiểm nguy, và nếu không có những phương sách dự phòng, trong tương lai có thể xảy ra những bất trắc khó lường. Vì thế, Đức Phật ban hành ra tám điều giới hay tám điều kiện bảo vệ. Chính tám điều giới này tạo điều kiện để điều hành tốt đẹp hai cơ quan trong tinh thần trang nghiêm và thích đáng với bản tánh tự nhiên. Nó giữ chư Ni trong vị trí thích hợp với tâm tánh người nữ. Cũng chính tám điều giới này đã hỗ trợ trạng thái điều hòa và thuận thảo, đem lại tình giao hảo thích nghi giữa Tỳ kheo và Tỳ kheo ni.

Người nữ học giới ngày nay lẽ nào không thấy được giá trị thiết thực tám điều giới làm khuôn phép tiến tu và điều kiện cần thiết cho sự tồn tại giáo hội Tỳ kheo ni mà lại không muốn tuân thủ, cho là lỗi thời? Lẽ nào Tỳ kheo tăng ngày nay không đáng cung kính? Tăng thì luôn luôn thanh tịnh và hòa hợp, vì Tăng là chỉ số gồm có 4 vị Tỳ kheo trở lên. Nếu cho rằng Tăng không đáng cung kính vì thiếu sự thanh tịnh và hòa hợp, giáo giới Ni chúng sẽ không hợp căn cơ, không làm cho Ni chúng vui thích mà không cầu giáo thọ hay không đến Đại Tăng cầu thọ cụ túc giới thì nhất định không tồn tại tánh Tỳ kheo ni.

Có thể vì một vài cá nhân Tỳ kheo nào đó bê bối không đủ phạm hạnh khiến chư Ni bất nhẫn không muốn cung kính, nhưng đừng vì thế mà quên rằng việc cầu giáo thọ hay cầu thọ đại giới là cầu với Tăng chứ không phải cầu với cá nhân. Song, cho dù cá nhân vị Tỳ kheo đó có như thế nào đi nữa thì đó cũng thuộc phạm vi của giáo hội chư Tỳ kheo, Tỳ kheo ni phải luôn nhớ trong tám điều không thể vượt qua đó đã ghi rõ không được khiển trách hay nặng lời đối với Tỳ kheo, không được chê bai nói rằng: Thầy phá giới, phá kiến, phá oai nghi (Luật Tứ Phần, Ngũ Phần, Ma Ha Tăng Kỳ – Q.3). Đủ thấy, tám điều giới pháp là linh hồn của giáo hội Tỳ kheo ni không thể không bảo trọng, như trong Luật Tứ Phần – Tỳ kheo ni ghi : “Như vậy đó A Nan! Ta nay đã nói tám kỉnh pháp suốt đời tôn trọng không được trái phạm, nếu người nữ nào thực hành được thì tức là được thọ giới. Cũng ví như có người muốn qua dòng nước lớn, phải bắc cầu mà đi qua”.

Chiếc cầu lợi ích qua dòng sông sanh tử đó ai muốn bỏ vì thấy ràng buộc thì tùy. Nhưng hãy nên nhớ một điều nếu không có tám pháp cung kính đó thì chắc chắn không có giáo hội Tỳ kheo ni hình thành và cũng không có ai là thật tánh Tỳ kheo ni.

Vấn đề sự xuất hiện Tỳ kheo ni đã làm chánh pháp mất đi một nửa có liên quan gì đến Bát kỉnh pháp? Chúng ta có thể lý giải điều này là do sự song hành vận động của hai giáo hội là điều kiện thuận lợi cho hai hệ phái vốn còn mang nhiễm tính “cọ xát”. Sự qua lại thuận tiện gần như “hợp thức hóa” giữa Tăng và Ni, tính yếu mếm cần được chở che của Tỳ kheo ni, sự phô trương đức tính tùng bách hiên ngang nâng đỡ của hàng Tỳ kheo đã là nội dung chính yếu cho ngọn lửa ái nhiễm bốc cháy. Tất nhiên chánh pháp có đổi sang tượng pháp là do người tu chứng ngộ ít dần chứ không thể đổ thừa do sự xuất hiện của Tỳ kheo ni.

Nhưng xét kỹ nguyên nhân không chứng nhập Niết bàn là hành giả không phát huy được định tuệ. Định tuệ có từ giới. Khả năng hư hại giới pháp của các thầy Tỳ kheo không gì khác hơn là nữ sắc, mà trong đó Tỳ kheo ni là khả năng nhiều nhất. Vì thế, Bát kỉnh pháp đối với Tỳ kheo ni là điều nhất định không thể vượt qua, để duy trì một nửa chánh pháp còn lại, để giữ gìn sự thanh khiết và thánh thiện giữa hai giáo hội hiện tại và tương lai.

Tóm lại, có thể nói tám giới trọng yếu đó là nền tảng vững chắc làm nền để xây dựng kiến trúc đồ sộ và công trình sinh hoạt chảy trôi suôn sẻ của hai giáo hội.

HT .Thích Minh Thông

Nguồn: Báo Giác Ngộ, số Xuân 2002 (*) Bây giờ gọi là Ni bộ, danh từ Giáo hội chỉ sử dụng chung cho cả hai bộ.

12-22-2002 04:15:33
Đây là một sự canh tân mới lạ phi thường vì nó chấp nhận cho hàng phụ nữ đặc quyền tiếp thụ một bản chất cao quý, một sức mạnh kiên cố vững chắc trong nền đạo lý, một khả năng thấm nhuần trí tuệ thâm sâu ngang hàng với nam giới. Và hơn 25 thế kỷ đã trôi qua, mặc dù nhiều hệ thống tôn giáo khác đã phát triển cực thịnh, nhưng vẫn chưa thấy có thêm một tôn giáo nào thành lập một giáo hội cho hàng nữ tu sĩ.

Les commentaires sont fermés.