Phật Kim cương trì – Vajradhara

Vajradhara nghĩa đen là bậc trì giữ kim cương. Đức Phật Kim Cương Trì Vajradhara là Đức Phật nguyên thủy, hiện thân của tất cả chư Phật trong ba đời và là tinh túy của tam thân – thân của chư Phật. Đức Phật Kim Cương Trì cũng biểu trưng cho Pháp thân Phật và khía cạnh tuyệt đối của sự giác ngộ.

 

Phật Vajradhara là sự biểu lộ cao nhất của giác ngộ, sự đại diện thấy được của Pháp thân. Nghĩa đen của “Vajra” là kim cương, nhất là trong phương diện cứng chắc không thể bể nát của nó. Trong nghĩa cao hơn, Vajra để chỉ bản tánh nội tại của giác ngộ – sự hợp nhất bất khả hoại và bất khả phân của trí huệ siêu việt và lòng bi vô hạn, cũng như lạc tối thượng và tánh không tối hậu.
Là sức mạnh vũ trụ tối cao khởi từ cõi giới Pháp thân, Vajradhara tượng trưng sức mạnh hợp nhất tối thượng và nguồn bi mở khắp. Trong Vajradhara mọi hình tướng Báo thân, mọi phẩm tính và công năng của chúng được thống nhất. Từ đó Vajradhara được diễn tả là sự thống nhiếp toàn khắp của mọi thuộc tính của giác ngộ.

 

Ngài là hiện thân của sự tinh túy siêu việt của Phật tính với tay phải trì giữ chày Kim cương (biểu thị phương tiện), tay trái của Ngài giữ linh (biểu hiện trí tuệ). Hai tay bắt chéo trước ngực, Kim cương trì là sự đại diện tuyệt đối của Bất nhị và tánh Không đó là Mahamudha (Đại ấn), sự hợp nhất vĩ đại – sự chứng thực tuyệt đối. Đây là mục đích tối thượng mà tất cả các hành giả đều tinh tiến nỗ lực vươn tới.

 

Trong Truyền thống Mới, Ngài là Đức Phật nguyên thuỷ, nguồn mạch của mọi tantra. Trong Truyền thống Cũ, Vajradhara tượng trưng cho nguyên lý của vị Thầy như bậc trì giữ giác ngộ của giáo lý Kim Cương Thừa.

 

Trong mật thừa, Đức Phật Kim Cương Trì là tâm điểm của dòng truyền thừa Kagyu bởi vì tổ của dòng là Đức Tilopa đón nhận trực tiếp giáo pháp Kim Cương Thừa từ Đức Kim Cương Trì, đức Báo thân Phật. Trong dòng Nyingma, Đức Kim Cương Trì được coi là bất khả phân với Đức Liên Hoa Sanh. Trong hiển thừa, ngài chính là vị cư sĩ vĩ đại Duy Ma Cật đã giúp Phật Thích Ca dạy dỗ các đại đệ tử và bồ tát 2500 năm trước.

Tham khảo thêm về hóa thân của Đức Phật Kim Cương Trì tại đây.

 

Tượng Kim Cương Trì của Trung Hoa vào thế kỷ thứ 18

Kim Cương Trì là một vị Bồ Tát Mật Tông – tên tiếng Phạn Vajradhara – hay Đức Phật nguyên thủy là tinh túy của Tam Thân, hóa thân của ba đời chư Phật. Vajradhara là biểu trưng Pháp Thân Phật, vì vậy cũng chính là biểu trưng sự chứng ngộ tuyệt đối. Trong Tạng Mật – Kim Cương trì xuất hiện trong hầu hết trong các tác phẩm điêu khắc và hội họa của Phật Giáo Tạng truyền với nhiều hình dáng và ứng thân khác nhau.

Thân thế và nhân dáng

Kim Cương Trì trong một bức bích họa

Đức Phật Vajradhara là hóa thân chân thực của tinh túy vô thượng Phật quả. Hai tay Ngài bắt chéo trước ngực, tay phải cầm chày kim cương hay kim cương chử (Phạt Chiết La – tượng trưng phương tiện), tay trái cầm chuông (Kim Cương Linh – tượng trưng trí tuệ). Vajradhara biểu trưng hữu không bất nhị cùng cứu kính bất nhị cũng chính là Đại Hợp nhất Mahamudra. Kim Cương Trì biểu thị trí lực kiên nghị của Bồ Tát ở Kim Cương bộ hàng phục ác ma. Kim Cương Chử cũng tượng trưng cho trí tuệ bền sắc như Kim Cương của Như Lai.

Kim Cương Trì trong các hóa thân

Kim Cương Trì là Đức Phật nguyên thuỷ, Kim Cương Trì là nguồn mạch của mọi tantra trong truyền thuyết mới. Ngược lại – trong truyền thuyết cũ, Vajradhara tượng trưng cho nguyên lý của vị Thầy như bậc trì giữ giác ngộ của giáo lý Kim Cương Thừa.Trong Phật Giáo Mật thừa, Đức Phật Kim Cương Trì là vị thần tối cao của dòng truyền thừa Kagyu bởi vì yếu tổ của dòng là Đức Tilopa đón nhận trực tiếp giáo pháp Kim Cương Thừa từ Đức Kim Cương Trì, đức Báo thân Phật. Trong dòng Nyingma, Đức Kim Cương Trì được coi là bất khả phân với Đức Liên Hoa Sanh. Trong hiển thừa, ngài chính là vị cư sĩ vĩ đại Duy Ma Cật đã giúp Phật Thích Ca dạy dỗ các đại đệ tử và Bồ Tát 2500 năm trước.

Kim cương trì diễn tả sức mạnh vũ trụ tối cao xuất phát từ cõi giới Pháp thân, Vajradhara tượng trưng sức mạnh hợp nhất tối cao và long từ bi. Ở Kim Cương Trì – một vị thể hiện hết mọi hình tướng của Báo thân, mọi phẩm chất và công năng được thống nhất. Từ đó Vajradhara được diễn tả là sự thống nhất của mọi thuộc tính giác ngộ.

—————————————————————————–

http://tuyenphap.com/Tuyen-phap-Viet-Nam/Gioi-thieu-tom-luoc-ve-duc-Phat-Kim-Cuong-Tri-doi-thu-3

Đức Phật Kim Cương Trì III

Giới thiệu tóm lược về đức Phật Kim Cương Trì đời thứ 3

[Bài viết dưới đây được viết bởi Hiệp hội Tăng già Quốc tế và có trong nội dung cuốn sách về đức Phật Kim Cương Trì đời thứ 3, độc giả chưa biết tới Ngài nên đọc trước tiên bài pháp “Thế nào là tu tập” của Ngài được đăng tải trên trang web này.]

*

Đức Như Lai H.H.Dorje Chang Wan Ko Yeshe Norbu đời thứ 3 chính là đức Phật Kim Cương Trì, nghĩa là “vị lãnh đạo các bậc Kim cương”. Ngài là hóa thân hoàn hảo của đức Phật Kim Cương Trì, vị Phật báo thân nguyên thủy. Danh hiệu viết tắt của Ngài là H.H. Dorje Chang Buddha III – Đức Phật Kim Cương Trì đời thứ 3. (Trên thế giới này, Ngài còn được gọi một cách cung kính là Bậc Thầy Wan Ko Yee). Những thành tựu của Đức Phật Kim Cương Trì đời thứ 3 là cao nhất trên thế giới. Không có vị thánh nhân nào trong đạo Phật có thể sánh với Ngài khi thể hiện những minh chứng thực tiễn về trí huệ và mức độ chứng ngộ mà Ngài đã đạt được thông qua sự thông tuệ Hiển và Mật thừa và sự làm chủ Ngũ Minh.

 

Các tiêu chuẩn mà  chư Phật thiết lập để đo lường sự  thành tựu của một vị chứng ngộ trong Phật pháp chính là mức độ thông tuệ trong Hiển thừa và Mật thừa và mức độ làm chủ của Ngũ Minh của vị đó. Trong lịch sử Phật giáo cho đến nay, chỉ có đức Phật Kim Cương Trì đời thứ 3 mới thể hiện được toàn bộ và hoàn hảo Ngũ Minh. Ngài thực sự đã thị hiện cho tất cả, lần lượt những thành tựu về trí huệ sâu rộng của Ngài về Hiển thừa và Mật thừa cũng như sự làm chủ hoàn hảo ngũ Minh, như đã đặt ra bởi chư Phật. Ngài, vị cổ Phật, bậc thánh nhân đầu tiên trong lịch sử đã thị hiện sự chứng ngộ hoàn hảo và cao tột đó! Những minh chứng cụ thể hơn về những thành tựu của riêng Ngài đã được đề cập tại 30 chủ đề chính trong cuốn sách: Đức Phật Kim Cương Trì 3 – Một kho tàng quý báu của Phật pháp đích thực ( H.H. Dorje Chang Buddha III —A Treasury of True Buddha-Dharma.)

 

Đương nhiên, việc sắp xếp những thành tựu của Ngài vào 30 nhóm chính chỉ là vấn đề về hình thức. Trên thực tế, những thành tựu đề cập trong cuốn sách vượt xa 30 loại trên. Ví dụ, riêng nhóm Công Xảo Minh đã gồm 3 nhánh chính là: nhiếp ảnh, đồ họa 3 chiều và mỹ thuật trên gương kính. Tuy nhiên, Đức Phật Kim Cương Trì đời thứ 3 đã tập hợp các nhóm này lại trở thành 1 nhóm chính, từ đó, giảm bớt được số lượng nhóm chính xuống còn 30. Trên thực tế, làm sao 30 nhóm chính đó có thể chứa đựng nổi những thành tựu của Ngài? Những thành tựu này thể hiện trí huệ của Phật pháp là vô hạn. Riêng thành tựu về Nội minh đã gồm sự chứng ngộ sự thật không giới hạn của Pháp có điều kiện và Pháp không điều kiện trong vũ trụ và sự làm chủ Tam tạng kinh điển và Mật điển.

 

30 nhóm chính được liệt kê trong cuốn sách gồm:

  1. Những lời chứng thực & chúc mừng;
  2. Đức hạnh của đức Phật Kim Cương Trì đời thứ 3 và những sự kiện linh thánh;
  3. Sự chứng ngộ linh thiêng của Đấng Như Lai tối thượng
  4. Phật pháp tối thượng và sâu sắc khó gặp kể từ hàng triệu 1kiếp.
  5. Câu đối
  6. Thư Pháp
  7. Điêu khắc đá
  8. Thơ ca cổ điển
  9. Châm cứu Kim Cương tiêu diệt bệnh tật.
  10. Làm khỏi bệnh.
  11. Thuốc và sản phẩm chăn sóc sức khỏe
  12. Điêu khắc nhiều màu
  13. Tấm chạm khắc ngọc quý
  14. Châm ngôn triết lý về các vấn đề thế gian
  15. Thơ và văn xuôi cổ điển hiện đại
  16. Tác phẩm học thuật
  17. Tác phẩm chạm khắc trang trí thủ công.
  18. Sự tinh thông về âm thanh
  19. Tác phẩm điêu khắc chứa sương bí ẩn
  20. Làm những cây khô trở nên cổ kính
  21. Mỹ thuật Trung Hoa
  22. Mỹ thuật phương Tây
  23. Khung mỹ thuật
  24. Thiết kế hình ảnh Phật
  25. Hoa văn trên đá.
  26. Tác phẩm trang trí treo tường.
  27. Những công trình kiến trúc và thắng cảnh
  28. Trà
  29. Nghệ thuật công nghệ
  30. Cứu giúp chúng sanh bằng cách giải phóng họ.

 


Tác phẩm “Spirit Resonance Will Live Forever” theo trường phái hội họa Tây phương

Trong nhóm chính thứ  tư về “Phật pháp tối thượng và sâu sắc khó gặp kể từ hàng triệu kiếp qua, Ngài đã giảng hơn 2000 bài giảng về Phật pháp. Những Giáo lý này rộng và sâu tựa như đại dương. Kể từ xa xưa đến nay, ngoài Giáo Pháp của đức Phật Thích Ca Mầu Ni trong cõi giới này, không có bậc Thánh nhân nào đạt thành tựu về nhiều mặt như đức Phật Kim Cương Trì 3 đã làm được. Hơn nữa, mỗi thành tựu của Ngài đều đạt cấp độ tuyệt đỉnh.

 

Chúng ta đi đến hiểu rằng, câu “sự thông tuệ sâu sắc trong ngũ  minh chính và ngũ minh phụ” thực sự chỉ là những lời sáo rỗng khi khá nhiều “nhân vật” tự nói rằng mình có khả năng này. Bởi vì thực sự họ không thể nào phô diễn những kỹ năng thực sự. Họ thậm chí còn không thể mang tới một văn bản hay bức ảnh nào để đánh giá. Thậm chí còn đáng ngạc nhiên hơn, khi những người này còn không thể theo kịp các nghệ nhân và chuyên gia trong xã hội. Làm sao họ có thể được coi là thông tuệ sâu sắc ngũ minh chính và ngũ minh phụ được? Làm sao họ có thể thể hiện sự thông tuệ về Phật giáo Mật thừa và Hiển thừa cũng như sự làm chủ Ngũ Minh như chư Phật đã nói về nó? Có thể nói rằng, cuốn A Treasury of True Buddha-Dharma là một cuốn sách về đạo Phật quý giá và chưa từng có, thể hiện sự chứng ngộ Phật pháp hơn bất kỳ cuốn sách nào trong lịch sử (đạo Phật). Khi nhìn thấy  bản thảo đầu tiên của cuốn A Treasury of True Buddha-Dharma, các vị lãnh đạo Phật giáo tối cao trên thế giới, vốn là hóa thân của các vị Phật hoặc Bồ tát, đã thực sự ngạc nhiên. Ngay lập tức, các Ngài tìm hiểu sự thật đằng sau cuốn sách này theo đúng với giáo pháp. Áp dụng những pháp hành Mật thừa liên quan đến việc chứng thực thân thế của một vị nào, các Ngài đã thâm nhập sâu vào pháp giới, áp dụng cái nhìn siêu nhiên và nhìn thấy nguồn gốc của sự thật. Ngay sau đó, các Ngài đã phát hành các tài liệu chứng thực riêng theo quy định, công bố rằng Đức Phật Kim Cương Trì 3 cao quý H.H. Wan Ko Yeshe Norbu chính là hóa thân của vị cổ Phật tối cao, và Ngài sở hữu sự thông tuệ chưa từng có về Phật giáoHiển thừa, Mật thừa và sự làm chủ hoàn toàn Ngũ Minh!

 

Tuy nhiên, điều làm chúng tôi ngạc nhiên khi Đức Phật Kim Cương Trì cho rằng, điều quan trọng không phải Ngài là hóa thân của vị  nào mà là việc giúp chúng sinh hiểu được nội dung “Thế nào là Tu tập?”. “Một hóa thân quan trọng là một người tu dưỡng đúng với giáo Pháp “Thế nào là Tu tập?”. Món quà thực sự mà ta ban cho các con chính là Phật pháp. Nếu các con có thể thực hành theo Giáo Pháp này và thực sự thấm nhuần một cách sâu sắc, ánh sáng sẽ ngập tràn khắp nơi, thế giới sẽ hòa bình và chúng sinh trở nên hạnh phúc mãi mãi, hưởng quả lành không giới hạn và đạt trọn vẹn phước báu và sự thông tuệ

 

Tạm thời chúng tôi  đặt sang một bên 30 loại thành tựu chính này. Còn có  một bằng chứng chứng minh đức Phật Kim Cương Trì  đời thứ  3 là vị thánh nhân tối cao. Trong nhiều dịp trong giai đoạn 1995-2000, khi đức Phật Kim Cương Trì đời thứ 3 truyền bá Giáo Pháp, Ngài bộc bạch một cách cởi mở rằng « Nếu ai hỏi ta một câu hỏi liên quan đến bất kỳ điều gì trong vũ trụ mà ta không thể trả lời được hoặc trả lời không đúng, ta không xứng đáng để truyền bá Phật pháp cho chúng sinh. Ta sẽ dành 5 năm để mọi người hỏi bất kỳ câu hỏi nào. Lời nguyện trong 5 năm này là sự thể hiện của Pháp. Sau thời gian này, ta sẽ không giữ lời nguyện này lâu hơn nữa”. Đức Phật Kim Cương Trì đời thứ 3 đã nói lời nguyện này một cách cởi mở nhiều lần,  như đã ghi lại trên băng.

 

Năm năm đó đã trôi qua khá lâu. Nhiều người đã đặt vô số các câu hỏi tới Ngài. Bất kỳ những câu hỏi gì liên quan đến Phật pháp hoặc vấn đề thế tục, người hỏi đều nhận được câu trả lời chính xác và đáng hài lòng. Không một câu hỏi nào làm bối rối đức Phật. Trong những bản ghi âm những Giáo pháp truyền khẩu bởi đức Phật, chúng tôi thường nghe lời tuyên bố cởi mở này của Ngài, những câu hỏi đặt ra và câu trả lời đáp lại. Ngài không chỉ trả lời câu hỏi được đặt bởi người Châu Á, mà còn trả lời liên tiếp các câu hỏi của người phương Tây. Một ví dụ xảy ra ở St. Louis, Bang Missouri. Sau khi chủ tịch Liên đoàn các trường trung học và đại học Mỹ nghe ứng khẩu của Đức Phật Kim Cương Trì đời thứ 3 trước những câu hỏi được đặt ra bởi các chủ nhiệm khoa, hiệu trưởng, giáo sư và tiến sĩ tại các trường trung và đại học, ông thực sự xúc động, tự tát má mình trước mặt nhiều người tham dự. Ông phát biểu một cách hào hứng rằng ông đã sống trong ảo tưởng bao nhiêu năm trời và nghe được những lời giải đáp của đức Phật Kim Cương Trì đời thứ 3 thật sự làm lợi cho ông một cách sâu sắc.

 

Vũ trụ rộng lớn vô biên, không khởi đầu, không kết thúc, không giới hạn. Phải là một người thế nào mới có thể nói rằng “Không có một câu hỏi nào trong vũ trụ mà ta không thể trả lời?” Hơn nữa, đức Phật của chúng ta lại thề nguyện một cách cởi mở rằng, Ngài sẽ dành ra cho cả những bậc thánh nhân lẫn người thường 5 năm để đặt bất kỳ một câu hỏi nào tới Ngài. Một người thế nào mới có thể đạt được trình độ chứng ngộ và thành tựu cao đến vậy? Làm thế nào để một người bình thường lại có thể có sự toàn tri đến vậy? Hơn nữa, đây không phải là một sự bịa đặt. Sự thực không thể phủ nhận này minh chứng rằng sự chứng ngộ của đức Phật, vào thời điểm đó gọi là Bậc thầy Wan Ko Yee, không có gì mà Ngài không hiểu. Làm sao người đó lại là một bậc thánh nhân thông thường được? Người đó không thể đơn thuần là một bậc Bồ tát bình thường. Điều này đã từng là một bí ẩn trong một thời gian dài.

 

Rốt cục, ai là bậc thánh nhân với đức hạnh cao quý này vậy? Phải chăng Ngài đến từ cõi trời hay từ đất Phật? Đức Phật Kim Cương trì đời thứ 3 luôn giải đáp các câu hỏi trên bằng câu trả lời Ngài là người bình thường. Hơn nữa, Ngài không bao giờ tiết lộ cho bất kỳ ai về thân thế của Ngài trong kiếp trước. Ngài thường nói rõ ràng về niềm tin xác quyết của Ngài vào nhân quả và thường truyền bá giáo pháp Chân Như. Ngài thường nói Ngài là người phục vụ chúng sinh và Ngài là một hành giả bình thường. Nhưng chúng tôi có thể thấy từ những thành tựu rất chân thực rằng không có ai trong thế giới này có khả năng đạt được thậm chí một nửa những thành tựu của Ngài Kim Cương Trì đời thứ 3 đã thị hiện trước mắt chúng tôi. Nếu bất kỳ ai nghi ngờ điều này, có một giải pháp khá đơn giản. chúng tôi khuyến khích bất cứ ai xung phong và phá kỷ lục này của Ngài. Nếu bất kỳ ai đạt được những thành tựu như của Ngài chỉ trong 15 loại chính, khi đó, chúng tôi tin rằng người đó cũng là Phật hóa thân đến với thế giới này.

 

Tất cả mọi người đều biết rằng, những khả năng của người thường không thể vượt qua bậc thánh nhân, như những bậc cao tăng lỗi lạc, đạo sư vĩ đại hoặc những hành giả đạo hạnh tuyệt vời. Làm sao một hành giả bình thường lại có thể có sự thông tuệ Phật giáo Hiển thừa và Mật thừa, làm chủ hoàn hảo Ngũ Minh và sở hữu trí huệ vĩ đại ? Trái lại, làm sao mà một người không hiểu thấu Phật giáo Hiển và Mật thừa, không làm chủ được Ngũ Minh hoặc thậm chí còn không hiểu nổi một minh và trí huệ thấp kém lại có thể là một vị Phật hay Bồ tát ? Làm sao Phật pháp của chư Phật có thể phân loại những người đã chứng ngộ như là những kẻ khờ khạo và những kẻ chưa chứng ngộ thông thường lại là những bậc nắm giữ trí huệ tối hậu ? Sự thật trong Giáo lý của chư Phật là cấp độ chứng ngộ và đức hạnh càng cao thì sự thể hiện trí huệ càng cao. Chư Phật được đặt tên là chư Phật bởi trí huệ của các Ngài cao đến nỗi đạt được tầm mức chứng ngộ mà tại đó, không có điều gì là các Ngài không làm được. Điều này chúng ta, những người bình thường cũng có thể hiểu được. Vậy làm sao những vị thánh nhân linh thiêng ấy lại cần phải đắn đo với những vấn đề như vậy ? Thật nực cười nếu bất kỳ vị thánh nhân nào lại phải cân nhắc nghĩ suy trước những vấn đề như vậy. Làm sao những người như vậy lại được gọi là thánh nhân cơ chứ ?

 

Những tác phẩm điêu khắc nhiều màu kỳ diệu của đức Phật Kim Cương Trì đời thứ 3 là những vật linh thiêng không thể bị sao lại bởi bất kỳ người nào khác trên thế gian này.  Nhưng hãy nghĩ đến điều khác. Liệu đức Phật Thích Ca Mầu Ni có thể  tạo ra những tác phẩm điêu khắc như vậy không ? Không có gì mà chư Phật lại không làm được. Đương nhiên, đây chỉ là một vấn đề rất nhỏ đối với chư Phật. Liệu Bồ tát Quan Âm hoặc Bồ tát Văn Thù có thể tạo ra những tác phẩm này không ? Đương nhiên, đối với họ, điều này chẳng có gì khó khăn. Bạn không thể không nhìn nhận trí huệ của chư Phật và các Đại Bồ tát bằng việc nói rằng, các vị không thể thành tựu một việc nhỏ như vậy. Nếu một ai đó thiếu thậm chí chỉ một phần nhỏ như vậy của sự chứng ngộ, làm sao người đó lại có thể được coi là hóa thân của chư Phật, Quán Âm, Văn Thù hoặc Phổ Hiền đại Bồ tát? Liệu chúng ta có thể chấp nhận rằng chư Phật và chư Đại Bồ tát không thể tạo ra những tác phẩm như vậy ? Ngược lại, chắc chắn chúng ta không thể nói rằng sự chứng ngộ và trí huệ của những người đã sáng tạo ra những các phẩm điêu khắc trên ở mức thấp, trong khi sự chứng ngộ và trí huệ của những ai không thể tạo ra những tác phẩm trên là ở mức cao. Chúng tôi lấy ví dụ về một tảng đá. Chúng ta không thể nói rằng những người nâng được tảng đá đó lên là có thể lực yếu, trong khi những người không thể nâng tảng đá đó lên lại có thể lực khỏe mạnh. Vấn đề trên và ví dụ này cùng một cách lý luận như nhau.

 

Mặc dù điều này là một chuỗi lý luận, vậy rốt cục, ai đã giáng lâm xuống thế gian này và hóa hiện thành Bậc Thầy H.H. Master Wan Ko Yee ? Làm thế nào mà không có bất cứ câu hỏi nào mà Ngài lại không thể trả lời được ? Làm sao mà không có vấn đề gì mà Ngài lại không hiểu thấu ? Làm sao mà Ngài lại có thể chứng đắc được nhiều thành tựu tột đỉnh đến vậy ? Làm sao mà không một ai khác có thể sao chép lại chỉ một vài tác phẩm nhỏ mà Ngài đã tạo ra ? Câu trả lời cho từng ấy câu hỏi tưởng như đã là một bí ẩn không bao giờ có lời giải đáp.

 

Thời gian chậm chạp trôi qua, những câu hỏi trên vẫn chưa thể được trả  lời. Khi đó, các bậc thánh tăng và các Pháp vương mà mức độ chứng ngộ của các Ngài ở cấp cao nhất trên toàn thế giới đã đọc cuốn A Treasury of True Buddha-Dharma. Cuốn sách này thực sự đã đem lại niềm cảm hứng lớn lao và các Ngài đã truyền cuốn sách cho những bậc thánh tăng và pháp vương cao cấp nhất để đọc. Những bậc thánh nhân đạo hạnh lỗi lạc ấy, vốn là hóa thân của chư Phật và Bồ tát, đã nhập vào trạng thái sâu sắc về giác quan siêu nhiên bằng thiền định hoặc thực hành Pháp. Các Ngài, liền sau đó, đã thông cáo về thân thế của Đức H.H Wan Ko Yeshe Norbu, vị từ lâu đã được công nhận bởi Đại Pháp vương H.H. Zunsheng (hóa hiện của Đức Đại Nhật Như Lai), là đức Phật Kim Cương Trì. Bằng Pháp hành nghiêm ngặt và thiền định, những vị thánh tăng này đã thâm nhập sâu vào Pháp giới và thực sự nhìn thấy cội nguồn đích thực.

 

Kết quả mà các Ngài nhận được về vị Thánh Tăng tôn quý  và đức hạnh vĩ đại này chính là hóa thân lần thứ hai của Ngài Duy Ma Cật và hóa thân lần thứ ba của Đức Phật Kim Cương Trì. Họ đã ban hành những chứng thực theo đúng quy ước trong đạo Phật trong đó họ chứng nhận bậc Thầy H.H. Wan Ko Yee chính là hóa thân đời thứ 3 của đức Phật Kim Cương Trì – Vị cổ Phật tối cao của cả Hiển Thừa, Mật thừa, Đại Thừa, Nguyên Thủy, và Phật giáo Kim Cương Thừa ; vị Thầy của Ngũ bộ Phật tại ngũ phương ; và cũng là vị Thầy của đấng đại Bồ tát Kim Cương Tát Đỏa. Điều này có nghĩa là, các Ngài đã thừa nhận rằng bậc Thầy H.H. Wan Ko Yee chính là đức Như Lai Wan Ko Yeshe Norbu, vị lãnh đạo vĩ đại nhất của đạo Phật trong toàn thể Pháp giới hiện nay! Bởi vì đức Ngài là hiện thân toàn diện, hoàn hảo, đích thực và trực tiếp về thân, khẩu, ý của đức Phật Kim Cương Trì. Ngài khác với hàng trăm triệu các vị Phật sống và các chư Bồ tát đã hóa hiện trên thế giới này. Bởi vì các vị Phật sống và các chư Bồ tát chỉ là hóa thân một phần của một vị Phật hoặc Bồ tát. Do đó, họ chỉ đại diện một phần sức mạnh về thân, khẩu, ý của vị Phật hoặc Bồ tát đó. Điều này giải thích tại sao, không có bậc thánh nhân nào trên thế giới hiện nay có thể thể hiện sự thông tuệ toàn hảo về cả Phật giáo Hiển thừa và Mật thừa và sự làm chủ hoàn toàn Ngũ Minh.

 

Những bậc thánh tăng xuất chúng và các vị Pháp vương này đã viết những lời ca ngợi đức Phật Kim Cương Trì đời thứ 3 như là bậc Thánh nhân vĩ đại và cao quý nhất, là bậc toàn tri tôn quý duy nhất trong lịch sử Phật giáo đã thực sự phô diễn lần lượt những thành tựu trong ngũ Minh trước chúng sinh. Như đức Đại Pháp Vương Zunsheng tuyên bố chính thức rằng sự chứng ngộ của bất cứ vị cao tăng lỗi lạc hoặc bậc phạm hạnh nào trên thế gian này đều không thể sánh được với sự chứng ngộ của đấng Như Lai thiêng liêng Wan Ko Yeshe Norbu. Ngài còn đưa ra lời tuyên thệ về sự thật : « Nếu bất chúng sinh hoặc bậc thánh nhân nào có thể sao chép lại những kho tàng điêu khắc bí ẩn được tạo bởi đức H.H. Wan Ko Yeshe Norbu, khi đó những tuyên thệ chính thức của đức Đại Pháp Vương Zunsheng sẽ bị coi là lừa dối chúng sinh » (Kho tàng điêu khắc bí ẩn là “Những sắc màu quyến rũ của sự bí ẩn tột bực,” “Những tảng đá sương khói bí ẩn” và một số công trình điêu khắc Yun khác  với những tên gọi cụ thể.)

 

Những người xem triển lãm đã kinh ngạc khi bức điêu khắc Yun “Những tảng đá sương khói bí ẩn” trên chứa sương mù trong một phần của cái hốc.

 

Theo trật tự hệ  thống và các quy định của Phật giáo trên thế  giới này chỉ có 2 đấng Tôn quý mà sự  tuyên Pháp của các Ngài có thể được gọi là  « kinh». Một trong số hai Ngài là đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Vị còn lại là bậc Thánh nhân, cư sĩ vĩ đại Duy Ma Cật. Ngoài ra, mọi thuyết giảng Pháp của các bậc thánh nhân khác chỉ được gọi là Luận, thay vì được gọi là Kinh. Điều này đúng cho bất kỳ cấp độ Bồ tát dù có vĩ đại đến đâu.

 

Một số người nói rằng Tổ Huệ Năng đã truyền bá Pháp Bảo Đàn Kinh. Trên thực tế, đây là do thế nhân không hiểu hệ thống và các quy định trong Phật giáo. Hệ quả là, từ « kinh » chỉ được dùng để ca ngợi một cách thái quá dành cho Ngài Huệ Năng. Ví dụ, Bồ tát Di Lặc là vị Phật tiếp theo, người sẽ dẫn dắt Pháp hội Long Hoa. Tầm cấp của Bồ tát Di Lặc cao hơn rất nhiều so với Ngài Huệ Năng. Tuy nhiên, sự giảng Pháp của Ngài Di Lặc cũng không thể được gọi là Kinh. Chúng chỉ được chấp nhận là Luận. Một ví dụ nữa là bộ Luận về Duy thức Du già (Luận về các giai đoạn thực hành thiền định).

 

Bậc Thánh giả, cư  sĩ vĩ đại Duy Ma Cật đã giáng lâm trong cõi thế gian này trong thời đại của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngài là vị cổ Phật duy nhất hóa hiện thân cư sĩ để truyền bá Giáo pháp. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã trực tiếp truyền dạy cho bốn dạng đệ tử. Trong số họ có 500 tỳ kheo khó dạy dỗ và không muốn phát Bồ đề tâm của Đại Thừa. Một phương tiện thiện xảo đã được dùng để giáo huấn tất cả các tăng sĩ và 8000 vị Bồ tát. Sau khi vị cổ Phật Kim Cương Trì truyền Pháp tại Diệu hỷ Quốc (Abhirati – World of Wonderful Joy), Ngài đã ứng duyên nghiệp bằng cách chuyển thế thành bậc Thánh giả, cư sĩ vĩ đại Duy Ma Cật để giúp đức Phật dạy dỗ tăng đoàn, các Bồ tát và các vị đệ tử khác. Mục tiêu để bảo vệ và phát huy Phật pháp được truyền bá bởi đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Cấp độ chứng ngộ đạt được bởi đức Duy Ma Cật tương đương với mức chứng ngộ của đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Tuy nhiên, Ngài không muốn hóa thân dưới tướng trạng của một vị lãnh đạo tôn giáo trong cõi giới loài người, gây bè phái và tăng thêm sự vị kỷ của các hành giả.

 

Thấy rằng đức Phật Thích Ca Mâu Ni trở nên một vị Phật trong cõi giới loài người, bậc Thánh giả, cư sĩ vĩ đại Duy Ma Cật biết rằng đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một vị Phật và lựa chọn trợ giúp Ngài bằng cách thị hiện dưới thân tướng của một vị Bồ tát. Như vậy, Ngài Duy Ma Cật đã hành động giống như cách của vị Cổ Phật Chính Pháp Minh Như Lai khi Ngài thị hiện dưới thân tướng của Bồ tát Quan Âm, cùng cách với Bồ Tát Văn Thù –  bậc thầy của 7 vị Phật đã từng làm. Tất cả những điều này chỉ để làm lợi cho chúng sinh. Nếu hai vị Phật cùng một cấp độ ngang nhau xuất hiện đồng thời, điều này sẽ gây ra sự chia rẽ thế gian và ngăn trở sự phát triển của Phật Pháp và sự cứu giúp chúng sinh. Thực tế, chư Phật không quan tâm vị nào sẽ xuất hiện và lãnh đạo Phật giáo. Các vị Phật xuất hiện trong bất kỳ thân tướng và cách thức nào có lợi cho chúng sinh nhất. Mọi điều được thực hiện chỉ để làm lợi ích chúng sinh dựa trên Tâm bồ đề.

 

Bức họa: Duy Ma Cật luận pháp với Văn Thù – đời Tống

 

Do đó, chúng sinh không có cách nào biết rằng rằng sự chứng đắc và  giác ngộ của bậc thánh giả, cư sĩ Duy Ma Cật cao đến mức nào cũng như việc Ngài chính là hóa thân của đức Phật Kim Cương Trì, vị Phật cổ đầu tiên, tồn tại trước cả đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Tuy nhiên, Giáo pháp của Ngài Duy Ma Cật được gọi là Kinh, giống như Giáo pháp của đức Phật. Giáo pháp của đức Duy Ma Cật không phải là Luận. Trong hệ thống Phật giáo, giáo pháp của Ngài được gọi là Vilmalakirti-nirdesa Sutra (Duy Ma Cật sở thuyết kinh). Kinh này đến với chúng sinh trong thời đại của đức Thích Ca truyền bá Giáo pháp. Đây là một bộ kinh rất quan trọng. Kinh Duy Ma Cật đã được nghiên cứu và sử dụng trong cả Phật giáo Đại thừa và Kim Cương Thừa.

 

Trong Pháp giới, đức Duy Ma Cật là hóa thân của đức Phật Kim Cương Trì. Bởi Ngài là hóa thân của vị Phật báo thân cổ xưa này, Trí tuệ, sự chứng ngộ và cấp độ giác ngộ của ngài cao hơn hết thảy toàn bộ các vị Bồ tát. Như lời kinh đã nói ở trên, Khi đức Phật Thích Ca nói Bồ tát Di Lặc, vị Phật tương lai, lãnh đạo một nhóm các tăng ni đi thăm hỏi sức khỏe của ngài Duy Ma Cật, Bồ tát Di Lặc đã bạch đức Thế Tôn rằng « Thưa đức Thế Tôn, con không xứng đáng viếng thăm và hỏi han sức khỏe của Ngài Duy Ma Cật» Nguyên nhân mà Bồ tát Di Lặc thưa với đức Phật rằng khi Ngài đang thuyết Pháp cho chúng sinh, bậc thánh giả, cư sĩ vĩ đại Duy Ma Cật đã làm Ngài bối rối và đã nhân từ chỉ dạy Ngài. Do đó, Bồ tát Di Lặc không dám viếng thăm Ngài Duy Ma Cật. Những vị Bồ tát còn lại đều chắc chắn rằng, vị thánh giả, cư sĩ vĩ đại Duy Ma Cật sở hữu trí huệ đặc biệt thâm sâu và rằng họ cảm thấy còn chưa xứng đáng lãnh trách nhiệm này. Các Ngài sợ rằng các Ngài sẽ trở nên bối rối và không muốn tới.

 

Do đó, cuối cùng, Bồ tát Văn Thù, người vốn là một bậc cổ Phật và thầy của 7 vị Phật đã dẫn đầu rất nhiều các vị bồ Tát, A La Hán, và 500 vị Tỳ kheo đến thăm bệnh đức Duy Ma Cật. Bậc Thánh giả, cư sĩ vĩ đại Duy Ma Cật đã dùng thần thông và trí huệ của mình để giúp đỡ Phật Thích Ca chỉ dạy các vị khách này. Một ví dụ nữa, khi đức Duy Ma Cật thị hiện sự chứng ngộ và năng lực siêu nhiên của một vị Phật bằng cách di chuyển toàn bộ các bậc Bồ Tát, A La Hán, và cõi Phật gồm Bất Động Phật từ cõi Diệu Hỷ Quốc đến thế gian này để mọi học trò Phật tử có thể nhìn thấy. Tất cả chư Bồ tát của cõi Diệu Hỷ Quốc đều nghĩ rằng, đức Phật Bất Động đã di chuyển cõi của Ngài và các vị Bồ tát tới cõi giới loài người. Vào lúc đó, đức Phật Bất Động có nói rằng « Ta không làm điều đó. Điều này được thực hiện bởi sức mạnh siêu nhiên của Ngài Duy Ma Cật » Vào lúc đó, mười bốn nghìn tỷ chúng sanh đã phát tâm thành tựu Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Chỉ có đức Phật Kim Cương Trì, vị cổ Phật đầy năng lực siêu nhiên mới có thể di chuyển vị Phật khác đến một cõi giới khác. Không một bậc Bồ tát nào, dù ở cấp độ cao tới đâu, có thể có mức độ chứng ngộ cao để làm được một việc kỳ diệu như vậy.

 

Trong Kinh, Phật Thích Ca ca ngợi đức Duy Ma Cật với những lời sau : « Ai cúng đường tới bậc thánh nhân này cần biết rằng, họ đang cúng dường tới chư Phật. Ai sao chép lại kinh này hoặc giữ chúng trong phòng, cần biết rằng, đức Như Lai đang tồn tại trong phòng đó ». Đức Phật đã tuyên bố một cách rõ ràng rằng, bậc thánh giả, cư sĩ vĩ đại Duy Ma Cật chính là một vị Phật. Tại sao ngài Duy Ma Cật lại có thể có được cấp độ chứng đắc và giác ngộ cao đến vậy? Bởi vì Ngài Duy Ma Cật chính là đức Phật Kim Cương Trì, thầy của Ngũ Bộ Phật ngụ tại ngũ phương và là thầy của tất cả các vị Phật. Đức Phật Kim Cương trì hóa hiện như là vị cổ Phật Nhiên Đăng, vị Phật đã nhận đức Thích Ca là học trò. Ngài là vị Tổ tối cao, vị Phật cổ nhất và cũng là vị lãnh tụ lớn nhất của toàn bộ các truyền thống Hiển và Mật của Phật giáo. Do đó, đức hạnh, sự chứng ngộ và trí huệ của bậc thánh giả, cư sĩ vĩ đại Duy Ma Cật là không thể so sánh trên toàn thế giới. Toàn bộ 4 dạng học trò của Đức Phật, cho dù họ là tu sĩ hay cư sĩ, bao gồm cả các bậc Bồ tát, đã cung kính lắng nghe và thực hành theo giáo Pháp của đức Duy Ma Cật. Ngài đã giúp đức Phật Thích Ca khai trí 500 tỳ kheo và 8000 bồ tát để đạt được thành tựu trong Pháp.  Ngài cũng đã hướng dẫn và khai trí không biết bao nhiêu vị Đại Bồ Tát, những bậc đã thức tỉnh tâm Bồ đề.  Đức Duy Ma Cật thứ 2 và là đức Phật Kim Cương Trì thứ 3 chính là đức H.H. Wan Ko Yeshe Norbu. Các vị Pháp vương cực kỳ linh thánh ở cấp độ Phật và Bồ tát đã thừa nhận sự thực này theo đúng với Pháp và đã ban hành chứng thực đúng theo quy ước trong Phật giáo.

 

Đức Phật Báo thân nguyên thủy Kim Cương Trì Vajradhara

 

Khi đức phật Kim Cương Trì đời thứ 3 đản sinh, những tiếng trống bất thần cất tiếng trên bầu trời, tiếng nhạc trời êm dịu phát ra. Ba cầu vồng vào khoảng 40-50 mét xuất hiện đồng thời trên bầu trời. Chiếc ở giữa có màu xanh nguyên thủy. Chiếc bên phải có màu đỏ nguyên thủy, và chiếc bên trái có màu trắng nguyên thủy. Ban đầu, thân thể của Ngài màu xanh thẫm. Không có tiếng khóc của Ngài cất lên và có thể được nghe thấy. Hơn nữa, Ngài mở miệng và tuyên bố rất rõ ràng « Ta đã đến thế giới này. Ta đã làm chủ hoàn toàn Hiển giáo và Mật giáo và có thể thị hiện Ngũ Minh một cách thần kỳ. Hãy so sánh và các con sẽ biết » Sau khi tuyên bố những lời trên, Ngài im lặng và trở thành một đứa trẻ giống như bình thường. Cha mẹ Ngài nghĩ rằng họ đã sinh ra một con người bí ẩn và lạ thường nhưng không nói cho ai biết về chuyện này. Ngài không nói cho đến tuổi lên ba.

 

Khi Ngài ba tuổi, đức Đại Nhật Pháp Vương Zunsheng đã hướng dẫn Ngài trong việc học Tam Tạng kinh điển. Vào thời gian này, Ngài được dạy để thuộc lòng tâm chú của đức Phật Kim Cương Trì bảy lần. Cậu bé bất thần cười một cách chân thành và ngay lập tức, thị hiện Ba Thân và Bốn trí huệ. Đức Đại Pháp Vương Zunsheng ngay lập tức, kiểm tra kiến thức của Ngài về Tam tạng kinh điển và Mật điển. Pháp tử nhỏ bé đã giải thích những bản kinh này một cách dễ dàng. Chẳng có gì mà Ngài lại không hiểu. Ngài đã nhận ra những học thuyết và nguyên tắc của những giáo lý đó.

 

Đức Đại Nhật Pháp Vương Zunsheng khi đó đã tuyên bố chính thức như thế này : « Đức Phật Kim Cương Trì đã tới thế gian này lần thứ 3. Bậc thánh giả, cư sĩ vĩ đại Duy Ma Cật đã giáng lâm từ cõi cao nhất lần thứ 2. Ngài hoàn toàn thông hiểu các kinh điển Giáo Pháp. Bốn trí huệ của Ngài hoàn hảo tuyệt vời. Ngài là một vị cổ Phật mà chúng sinh có thể nương tựa. không vị Đạo sư nào có khả năng dạy Ngài. Kho tàng chạm khắc bí ẩn của Ngài thật ấn tượng và độc nhất vô nhị trên thế giới. Ngài có khả năng đưa sương mù vào trong các tác phẩm điêu khắc của Ngài. Ngài có khả năng thể hiện sự chứng ngộ và kỹ năng tuyệt vời. Không vị thánh nhân nào trên thế giới có thể sao chép lại những tác phẩm đó. Nếu bất kỳ ai có thể làm được điều này một cách hoàn hảo giống như nguyên gốc, những lời nói của ta là lừa dối thế giới. Đức Duy Ma Cật Wan Ko chính là đức Phật Kim Cương Trì. Ngài sẽ triệu thỉnh chư Phật đến ban nước cam lồ mà nhiều người sẽ nhìn thấy từ bầu trời. Ngài đến vì lợi ích tốt nhất cho chúng sanh. Ngài sở hữu lòng từ bi và trí huệ của một vị cổ Phật. Ta nói những lời này để minh chứng cho sự chân thật trong công bố chính thức của ta » Đức Đại Nhật Pháp Vương Zunsheng cũng đặt Pháp danh cho Ngài là Pháp Tử Yangwo Yizhi, có nghĩa là Pháp Tử lãnh đạo tối cao của Phật giáo với trí huệ tột đỉnh.

 

Đức Đại Nhật Pháp vương H.H. Zunsheng khi đó còn nói rằng « Trong thời mạt pháp ở cõi thế gian này, sẽ có rất nhiều vị Thầy tà ác mạo danh là những thánh nhân. Để phân biệt chánh với tà, ta nay đưa ra một tuyên bố chính thức và nghiêm ngặt mà những lời này có thể được sử dụng làm tiêu chuẩn đánh giá. Những lời tuyên cáo này như sau : « Không có hóa thân lần thứ tư của đức Phật Kim Cương Trì trong cõi giới này trong 5.000 năm tới. Đức Phật Kim Cương Trì đời thứ 3 sẽ là bậc thánh nhân duy nhất, không có hóa thân lần nữa của đức Phật Kim Cương Trì trong cõi giới này trong vòng 5000 năm. Dựa trên nhân duyên phù hợp với Pháp, ta nay đưa ra những thử thách để xác định một người tự xưng là hóa thân đích thực của vị Phật đó có thật hay không.

 

Người đó phải triệu thỉnh thành công chư Phật đến ban nước cam lồ. Người đó phải có khả năng tiến hành buổi lễ Rút thẻ từ chiếc bình vàng để xác định Nghiệp và dự đoán trước kết quả buổi lễ. Người đó phải có khả năng giải trừ nghiệp chướng một cách rõ ràng nhất. Người đó phải có khả năng sao chép được những tác phẩm điêu khắc nhiều màu kỳ diệu. Người đó phải có khả năng đưa sương mù vào trong tảng đá điêu khắc rỗng và duy trì chúng ở trong đó. Nếu một người có đủ khả năng làm được cả 5 điều trên mà không có sự ngoại lệ, người đó sẽ là hóa thân lần thứ tư của đức Phật Kim Cương Trì. Cho dù một bậc Khai Mật Tạng Pháp Vương có vĩ đại đến đâu, cho dù người nào để lại dấu chân và tay trên đá núi, cho dù người nào có năng lực siêu nhiên rộng lớn đến đâu, nếu người đó không làm được 5 điều linh thánh trên, người đó chắc chắn không phải là hiện thân đích thực của đức Phật Kim Cương Trì. Một vị cổ Phật đã giáng lâm xuống cõi thế này sẽ không gặp khó khăn nào để hoàn thành 5 thử thách trên. Ta đưa ra 5 bài thử thách có thể quan sát được này với mục đích ngăn chặn những kẻ mạo nhận trong tương lai ».

 

Pháp tử Wan Ko, vị  lãnh đạo Phật giáo, đã nhận người học trò đầu tiên khi Ngài 5 tuổi. Trong kiếp trước, người học trò này chính là một đệ tử của Đức Liên Hoa Sanh, người luôn ở bên cạnh Ngài. Người đệ tử đó cũng là một trong bốn môn đệ xuất sắc nhất của Bậc Thầy Shantaraksita, bậc sáng lập nên dòng phái Nyingma của Phật giáo Mật thừa Tây Tạng. Người đệ tử đó tên là Xirao Jiebu. Trong kiếp sống này, Ngài được công nhận là Đại đức Xirao Jiebu II và được trao tặng chiếc mũ của một bậc Pandita lỗi lạc bởi dòng Geluk.

Sau khi quy y Pháp Tử Wan Ko, đức Xirao Jiebu thường thấy năng lực siêu nhân kỳ diệu của đức Pháp Tử khi ở bên cạnh Ngài. Tuy nhiên, thật kỳ lạ sau khi đức Xirao Jiebu quy y, dân chúng trên thế giới hiếm khi nghe thấy Pháp Tử giảng Phật Pháp. Bằng cách đó, Pháp tử hành động y như bậc thánh giả, cư sĩ vĩ đại Duy Ma Cật đã làm khi Ngài nhận được nhiều giáo lý và những kiến thức khác nhau, dưới thân phận của một người bình thường, và học mọi điều một cách không mệt mỏi. Không ai biết tại sao Pháp tử lại làm như vậy.

 

Vào tuổi mười sáu, Pháp Tử viết một tác phẩm về giáo Pháp có tựa đề « A Monk Expounds the Absolute Truth to a Layperson – Một vị tu sĩ trao truyền sự thật tuyệt đối cho một cư sĩ ». Sau khi tác phẩm này bị chôn vùi, vị thầy vĩ đại Hui Yong đã đào và lấy lên. Đức Renqing Luozhu và Suolang Danbu đã cung kính dâng lên đức Đại Nhật Pháp Vương H.H. Zunsheng Yeshe Norbu để đánh giá. Ngài đã công bố về cuốn Giáo lý này trước 4 dạng Phật tử. Sau khi công bố về giáo pháp này, Ngài dẫn bốn dạng đệ tử quỳ xuống hướng về cuốn Giáo lý. Sau đó, Ngài tuyên bố chính thức « Một vị cổ Phật đã đến với phương Đông ». Ngài đã chứng nhận Pháp Tử chính là đức Phật Kim Cương Trì đời thứ 3, đặt pháp danh cho Ngài là Yangwo Wan Ko Yeshe Norbu, và nói rằng, Ngài chính làm đấng Như Lai thiêng liêng nhất. Ngài còn gọi cuốn Một vị tu sĩ trao truyền sự thật tuyệt đối cho một cư sĩ là Kinh.

 

Đương nhiên là đức Phật Kim Cương Trì đời thứ 3 tiếp tục truyền bá giáo Pháp và cứu giúp chúng sanh. Ngoài đức Xirao Jiebu, Ngài tiếp tục nhận học trò. Khi duyên nghiệp chín muồi, những hóa thân của các thành viên của 4 vị đệ tử xuất sắc nhất của bậc Thầy Shantaraksita quy y và trở thành những học trò của đức Phật Kim Cương trì như Đức Muya Jiongzha III và Đức Xiangge Qiongwa IV. Một vị đệ tử khác, Đức H.E. Denma Tsemang II, là thị giả thân cận của Ngài, người mà kiếp trước là một trong 25 vị đệ tử xuất sắc nhất của đức Liên Hoa Sanh. Đức H.E. Gar Tongstan IV, kiếp trước của Ngài là thừa tướng của nhà vua Songstan Gampo, cũng là một học trò thân cận của đức Phật Kim Cương Trì đời thứ 3. Những người đệ tử khác gồm đức Palden Lodoe, hóa thân của vị sáng lập ra dòng Kagyu Macang, Hsi Jao Seng Ge; Đức Yundun Duojibai Gadu Rinpoche thuộc dòng Nyingma; đức Dachu Hengsheng, kiếp trước của Ngài là đệ tử xuất sắc của vị Tổ Dangba Sangjie thuộc dòng Jueyu; đức Khu-ston brTson-‘grus g.yung-drung thuộc dòng Kadampa, kiếp trước của Ngài là một trong bốn vị đệ tử xuất sắc nhất của đức Atisha; đức Danzeng Nuori Rinpoche thuộc dòng Geluk; và nữ tôn giả Akou Lamo.

 

 

Thậm chí, hóa thân của vị tổ vĩ đại thuộc dòng Shangpa Kagyu, Bồ tát Tangtong Gyalpo, bậc được biết đến ở khắp Tây Tạng, đã chính thức nhận đức Như Lai Wan Ko Yeshe Norbu là thầy của Ngài. Thêm vào đó, một số bậc thánh nhân vĩ đại cũng giáng lâm xuống cõi thế này để ở bên cạnh đức Phật Kim Cương Trì đời thứ 3 và nhận được những Giáo Pháp thâm sâu từ đức Như Lai, như hóa thân của ngài Cấp Cô Độc, người đã dâng khu vườn Jetavana tới đức Phật Thích Ca Mâu Ni; hóa thân của ngài Xá Lợi Phất , vị đệ tử vĩ đại nhất của đức Thích Ca và Hóa thân của bậc sáng lập vĩ đại của dòng Nyingma, Đức Shantaraksita.

 

Hiện nay, theo quan kiến thế gian, nền tảng giáo dục của đức Phật Kim Cương Trì đời thứ 3 đang ở cấp độ cao nhất. Ngài hoàn toàn thông thạo về Tứ thư  ngũ Kinh bằng tiếng Trung cổ. Đối với giáo dục hiện đại, Ngài là một học trò nổi bật  ở trường tiểu học, nhận học hàm tiến sĩ cấp cao tại một trường đại học, và trở thành giáo sư tại một trường đại học Mỹ nổi tiếng, nơi mà Ngài đã giảng dạy trong vòng 6 năm. Ngài nhận được những khen tặng đặc biệt từ ngôi trường đó. Ngài là người duy nhất trong lịch sử hơn 200 năm qua của Viện Hàn lâm nghệ thuật hoàng gia Anh nhận được tước vị “Thành viên”. Tuy nhiên, đối với đức Phật Kim Cương Trì đời thứ 3, những điều này chỉ là những vấn đề không quan trọng và hầu như không xứng đáng để nêu ra.

 

Đức Phật Kim Cương Trì  đời thứ 3 đã không tiết lộ thân phận và danh tích thực của Ngài. Mặc dù Ngài đã thể hiện trí huệ vĩ đại và sự chứng ngộ cho người khác một cách không cố ý khiến họ kinh ngạc trước những gì họ thấy, bậc Thầy tôn quý này không bao giờ bàn luận về nền tảng riêng của Ngài. Nhiều người hỏi Ngài về dòng truyền thừa của Ngài, thậm chí còn ban hành văn bản yêu cầu ngài giải đáp bí ẩn này. Đức Phật Kim Cương Trì đời thứ 3 luôn trả lời rằng “Ta không biết. Ta chỉ  có Phật giáo. Ta là người phụng sự với một trái tim khiêm nhường”. Sự bày tỏ trên có thể thường được nghe thấy trong ghi âm những bài Pháp thoại của đức Như Lai trong nhiều năm.

 

Theo thời gian, người ta dần quen và nghĩ rằng, Ngài chỉ đơn thuần là một người tốt bụng, thông tuệ và có tài. Điều này cũng xảy ra với cả những thành viên trong học viện Văn hóa quốc tế của Bậc Thầy Wan Ko Yee, thành lập năm 1995, những người có thể coi là có sự hiểu biết tốt nhất về Ngài. Họ cũng vậy, không biết thân thế đích thực của ngài. Họ chỉ nghĩ một cách đơn giản rằng, Ngài là một bậc thánh nhân có đạo hạnh và trí huệ phi thường, gần giống với một vị Pháp vương Phật giáo như Dalai Lama hoặc Karmapa. Do đó, ngài chủ tịch của học viện trên, Longzhou Rinpoche, khi biết được danh tính đích thực của Ngài chính là đức Phật Kim Cương Trì đời thứ 3, đã sửng sốt và lắp bắp “Thảo nào. Thảo nào. Những vị Pháp vương vĩ đại cũng không thể sánh với vị Phật này! Làm điều đó có nghĩa là bất kính với Ngài và điều này sẽ thật là tội lỗi”

 

Thời gian trôi qua từng ngày. Vào một thời điểm nhất định, mọi người mới bắt đầu nhận ra rằng, đối với bất kỳ một dạng tri thức hay kỹ năng nào, Đức H.H. Wan Ko Yeshe Norbu cũng đều không cần phải học chúng. Ngay khi mới tiếp xúc, Ngài đã có thể dễ dàng hiểu được tri thức hay kỹ năng làm nên tác phẩm đó. Hơn nữa, Ngài ngay lập tức trở nên thông tuệ và thành thạo tri thức hay kỹ năng đó. Kết quả là, tác phẩm của Ngài còn vượt xa cả bản chính gốc mà Ngài đã nhìn thấy.

 

Những vị cao tăng lỗi lạc và Pháp vương giờ đây đã thông cáo về những chứng thực của các Ngài liên quan đến bậc thánh nhân linh thiêng này và những thông tin gây kinh ngạc về thân thế của Ngài. Chỉ lúc  đó, chúng tôi mới biết rằng, Ngài chính là bậc thánh giả, cư sĩ vĩ đại Duy Ma Cật thứ 2 và  là hóa thân đích thực của đức Phật Kim Cương Trì. Điều này cũng giải thích tại sao, đức Đại Nhật Pháp Vương công bố trong Tuyên cáo chính thức của Ngài rằng không một bậc Thầy đạo hạnh linh thánh nào có sự chứng ngộ cao hơn Ngài, đức Phật Kim Cương Trì đời thứ 3 và không ai có đủ phẩm chất để trở thành thầy của Ngài. Thậm chí 500 vị tỷ kheo, 8.000 vịBồ tát, các vị cao tăng lỗi lạc, các bậc tôn giả đạo hạnh vĩ đại cũng đã được Ngài chỉ dạy khi Ngài còn là đức Duy Ma Cật, chưa kể đến những bậc có cùng cấp độ đang được Ngài dạy trong cuộc đời này.

 

Bởi vì đức Phật Kim Cương Trì đời thứ 3 là một vị cổ  Phật đã giáng lâm xuống cõi thế này lần nữa, Ngài nắm giữ những nguyên lý của “sự không phân biệt giữa các truyền thống Mật và Hiển giáo; cũng như giữa các dòng phái và truyền thống khác nhau; giáo hóa chúng sanh tùy hoàn cảnh của họ; và truyền bá rộng rãi Giáo pháp của chư Phật cho tất cả chúng sinh”. Do đó, Ngài chính là đức Đại Pháp Vương – Đức Phật Kim Cương Trì thuộc “dòng truyền thừa Phật giáo”, đấng giải cứu toàn thể chúng sinh một cách không giới hạn. Dòng phái Phật giáo gồm toàn thể đạo Phật, không phân biệt các truyền thống khác nhau. Đức Phật Kim Cương Trì đời thứ 3 đã khuyên nhủ thính chúng nhiều lần rằng “Không có sự khác biệt giữa các dòng phái trong tâm ta. Chỉ có duy nhất đạo Phật. Tuy nhiên, nếu một Pháp Vương, Rinpoche, hay giáo thọ của bất kỳ truyền thống nào tuân thủ đúng giáo lý của chư Phật, đạt giải thoát và từ đó, cứu rỗi chúng sinh khác tùy thuận duyên nghiệp của họ, những vị đó xứng đáng được tán thán”.

 

Có những quãng thời gian nhất định gắn với việc truyền bá Phật Pháp và làm lợi ích chúng sinh của đức Phật Kim Cương Trì đời thứ 3. Trước tuổi 11 là  thời kỳ Ngài tham gia giảng dạy Tam tạng kinh điển của Phật giáo Hiển thừa. Độ tuổi 11 đến 15 là thời kỳ Ngài tham gia giảng dạy giáo lý mật thừa thuộc truyền thống Kagyu. Trong thời gian này, Ngài được coi là Pháp Tử Sư tử hống Dusum Khenpa. Kể từ độ tuổi 15, đây là thời kỳ Ngài giảng dạy giáo lý Mật thừa thuộc dòng Geluk. Trong thời gian đó, Ngài được coi là hóa thân của Bậc Thầy Tsongkhapa. Đây cũng là thời gian mà Ngài truyền bá một cách hoàn hảo các Mật điển thuộc dòng Sakya, Nyingma, và tất cả các truyền thống khác. Vào thời gian này, Ngài được gọi là đại diện cho Thân, Khẩu, Ý của đức Liên Hoa Sanh.

 

Trên thực tế, những danh xưng kính cẩn của những bậc tôn giả đạo hạnh vĩ đại và dân chúng khắp nơi dành cho Ngài đều không xứng đáng với danh tính đích thực của đức Phật Kim Cương Trì đời thứ 3. Danh tính đích thực của Ngài được tiết lộ khi duyên nghiệp với chúng sanh được chín muồi. Vào thời gian này, hóa thân chư Phật và chư đại Bồ Tát – Pháp vương đã áp dụng nhiều phương pháp khác nhau, nhập định sâu hay đi vào Pháp giới. Mỗi người trong số họ đều nhìn thấy trực tiếp và bằng cách siêu nhiên cội nguồn đích thực. Từ đó, các Ngài đã công nhận một cách thống nhất và rõ ràng rằng đức H.H. Wan Ko Yeshe Norbu chính là vị cổ Phật Kim Cương Trì đã giáng lâm xuống thế giới này lần nữa. Điều này có nghĩa là, Ngài chính là bậc thánh giả, cư sĩ vĩ đại Duy Ma Cật thứ hai và là đức Phật Kim Cương Trì thứ 3.

 

Cây quy y dòng Truyền thừa Phật giáo

 

Đức Như Lai Wan Ko Yeshe Norbu là vị lãnh đạo Phật giáo tối cao trong toàn thể Pháp giới và là hóa thân hoàn hảo của Đức Phật Kim Cương Trì. Trong vài ngàn năm gần đây, có rất nhiều bậc thánh nhân đã tới thế giới này và danh tính của các Ngài đã được công nhận. Tuy nhiên, Đức Như Lai Wan Ko Yeshe Norbu là vị cổ Phật Kim Cương Trì duy nhất và là vị lãnh đạo cao nhất của Phật giáo, người dẫn đầu 5 lãnh vực sau:

 

1. Ngài là bậc thánh nhân vĩ đại, đã nhận được những chứng thực bằng văn bản nhiều nhất và những lời ca tụng thành kính từ hóa thân các chư Phật và chư Đại Bồ tát của toàn bộ những dòng phái chính trong lịch sử Phật giáo (xem mục Những lời xác thực và Chúc Mừng).

2. Ngài là bậc thánh nhân vĩ đại, đã nhận được những đánh giá  cao nhất từ hóa thân chư Phật và chư Đại Bồ tát của toàn bộ các dòng phái chính trong lịch sử Phật giáo (xem những đánh giá trong mục Những lời xác thực và Chúc Mừng)

3. Ngài là bậc thánh nhân vĩ đại và là vị cổ Phật có  địa vị cao nhất trong toàn bộ chư Phật và  chư Bồ tát đã tới cõi giới loài người này (xem mục Những lời xác thực và Chúc Mừng trong đó có ghi Ngài chính là đức Phật Kim Cương Trì đời thứ 3)

4. Ngài là bậc thánh nhân vĩ đại nhất, đã làm nên những thành tựu cao nhất trong lịch sử nhân loại trong việc làm chủ Phật giáo Hiển thừa, Mật thừa, và Ngũ Minh. (xem 30 cách phân loại)

5. Ngài đã tạo ra sương mù tốt lành từ không trung và đưa nó  vào bên trong một tác phẩm điêu khắc đá rỗng và sáng tạo các tác phẩm điêu khắc linh thánh và kỳ diệu, đúng như lời đức H.H. Đại Pháp Vương Zunsheng tiên báo. Cho đến nay, trong lịch sử Phật giáo, không có vị thánh nhân vĩ đại nào hóa hiện trên cõi giới loài người có thể làm được những điều đó. Không ai có thể sao chép lại những tác phẩm tuyệt vời như vậy. (xem thêm Sự thật không thể chối bỏ tại trang 380 trong cuốn sách)

 

Những thành tựu nói trên không hề sáo rỗng hay dựa trên những lời nói không đáng tin cậy. Ngược lại, những lời nói trên dựa trên những tư liệu của các vị Rinpoche, Pháp vương, những vị cao tăng lỗi lạc, linh thánh và có đạo hạnh tuyệt vời trong thế giới ngày nay. Đó là những lời chân thực, được phát ngôn với một thái độ nghiêm túc, có trách nhiệm và sự hiểu thấu Nhân quả. Tại sao các bậc sáng lập ra các dòng phái, các Pháp vương, các Rinpoches, những người đều là hóa thân của chư Phật, chư Bồ tát đều nhất trí công nhận rằng đức H.H Wan Ko Yeshe Norbu là bậc Thánh nhân cao quý và vĩ đại nhất trong thế giới ngày nay? Một sự công nhận thống nhất ở cấp độ cao như vậy đã không xảy ra trong vài ngàn năm qua.

 

Câu trả lời đã rõ ràng mà không cần đắn đo: Ngài chính là đức Phật Kim Cương Trì đời thứ 3. Hơn nữa, trong thời đại ngày nay, có bậc thánh nhân hay học giả nào có thể đạt những thành tựu như Ngài đã đạt được? Không ai có thể tìm thấy người nào có khả năng thực hiện thậm chí chỉ một nửa trong số 30 danh mục chính về những thành tựu của Ngài. Không ai có thể tìm thấy người nào có khả năng sao chép lại thậm chí một trong nhiều tác phẩm điêu khắc nhiều màu tuyệt vời của Ngài.

 

Bên cạnh đó, do duyên nghiệp đã chín muồi của chúng sinh, đức Phật Kim Cương trì đời thứ 3 đã mang lại cho cõi giới này Giáo Pháp Đại Viên Mãn Thành tựu Thân cầu vồng Xian Liang. Bất cứ ai nhận được quán đảnh Pháp này từ đức Phật Kim Cương trì III đều có thể thành tựu thân cầu vồng ngay trong ngày giáo pháp được trao truyền và lễ quán đảnh được tiến hành. Không cần thiết phải thực hành nhiều ngày, tháng hay nhiều năm để chứng ngộ trạng thái này. Có những người duyên nghiệp chín muồi để nhận được quán đảnh này như đức H.E. Gar Tongstan IV, đức H.E. Kaichu Rinpoche và những bậc tôn giả đạo hạnh vĩ đại khác. Kể từ ngày nhận được quán đảnh, các Ngài đã có thể ở trong trạng thái sáng ngời của pháp tính vào mọi lúc.

 

Người nào có thể đạt được trạng thái chứng ngộ như vậy ngoài đức Phật Kim Cương trì đích thực? Hơn nữa, cách đây rất lâu, khi đức Phật sống trong thế giới này, bậc thánh giả đáng tôn kính Duy Ma Cật đã là vị thầy khai trí và hướng đạo cho tất cả các bậc cao tăng lỗi lạc, các bậc tôn giả đạo hạnh vĩ đại, và các vị Bồ tát. Các vị Pháp vương ở cấp độ hóa thân Phật hoặc Đại Bồ tát đã công nhận bằng văn bản theo các nguyên tắc của đạo Phật rằng Đức H.H. Yangwo Wan Ko Yeshe Norbu chính là Đức Duy Ma Cật thứ 2; và cũng là đức Phật Kim Cương Trì đời thứ 3.

 

Căn cứ vào sự  chứng ngộ hiện tại của Ngài, thân thế của Ngài là một vị cổ Phật, hay vị trí  của Ngài trên cây quy y dòng truyền thừa Phật giáo, đức Như Lai Kim Cương Trì đời thứ 3 H.H. Yangwo Wan Ko Yeshe Norbu là bậc thánh nhân vĩ đại nhất trong tất cả các hóa thân chư Phật, chư Bồ tát, các vị cao tăng xuất sắc và các bậc tôn giả đạo hạnh tuyệt vời!

Hiệp hội Tăng già Quốc tế.

————————————————————————————-

http://www.drukpavietnam.org/index.php/tin-quoc-te/tin-tuc-quoc-te-ve-truyen-thua/549-khai-quat-v-c-pht-kim-cng-tat-a-va-d-an-kim-cng-luan

Khái quát về Đức Phật Kim Cương Tát Đỏa và dự án Kim Cương Luân

alt

Khái quát về Đức Phật Kim Cương Tát Đỏa

Đức Phật Kim Cương Tát Đỏa, tiếng Tạng là Dorje Sempa, là một vị Phật chủ về Tịnh hóa. Ngài được coi là vị Phật quyền y nhất trong tất cả chư Phật chư Bồ Tát.

Trong quá khứ, khi đang còn tu học, Đức Kim Cương Tát Đỏa từng phát lời thệ nguyện như sau:

“Trong tương lai, khi ta chứng đắc Phật quả Toàn hảo, nguyện cho những ai phạm phải ngũ trọng  tội với quả báo nhãn tiền, hoặc bất kỳ ai bị bể giới nguyện Tam muội da, đều được tịnh hóa hoàn toàn mọi hành động tổn hại và sự hủy phạm giới nguyện nếu nghe được tên ta, niệm tưởng đến ta hay nhất tâm trì tụng Chân ngôn Trăm âm, chân ngôn tối thắng uy lực trong hết thảy mật chú! Chừng nào chưa thành tựu như vậy, ta nguyện còn trong luân hồi sinh tử! Nguyện ta sẽ thị hiện trước tất cả những ai lỡ hủy phạm và bể giới để tịnh hóa cho họ mọi bệnh tật, phiền não, chướng ngại!”

Vì những sức mạnh và uy lực như vậy, lời thệ nguyện giác ngộ của Đức Kim Cương Tát Đỏa vô cùng độc đáo và khác biệt so với lời thệ nguyện của các vị Phật khác. Về bản chất sâu xa, Đức Kim Cương Tát Đỏa là hiện thân của một trăm bộ Phật, ngũ bộ Phật cùng hết thảy Như Lai không phân biệt. Bởi Ngài là bậc Tối thắng chủ của một trăm Phật bộ và độc Phật bộ Đại mật, ngài không giống với bất cứ bản tôn nào khác. Bất cứ ai đều có thể thành tâm sám hối bằng cách đối trước bất cứ Đức Phật nào trong mười phương chư Phật, quán tưởng chư Phật trong cõi Tịnh độ của các Ngài. Nhưng, cách quán tưởng thù thắng nhất được khuyên nên thực hành, đó là hành giả thực hành sám hối bằng cách quán tưởng bậc Thượng sư của mình bất khả phân với Đức Phật Kim Cương Tát Đỏa, từ Ngài hiện khởi hết thảy Mạn đà la giác ngộ và hết thảy Mạn đà la giác ngộ lại thể nhập nơi Ngài.

Giới thiệu Dự án xây dựng Kim Cương Luân

alt

Kim Cương Luân là một dự án giúp hàn gắn vũ trụ, tận trừ hết thảy khổ đau dù hữu hình hay vô hình, là kết quả của vô vàn ác nghiệp được tích lũy từ vô thủy kiếp.

Với những gì xảy ra trong thế giới hiện đại mà chúng ta đã và đang chứng kiến, hiển nhiên có thể thấy rõ rằng, vô cùng cấp thiết phải làm điều gì đó hữu hiệu để ngăn chặn và hạn chế tác động của những bất thiện nghiệp đã chín muồi. Thật vô cùng may mắn là CHÚNG TA VẪN CÒN GIẢI PHÁP.

Kim Cương Luân sẽ được kiến lập với những đặc điểm sau:

 Cao 15 mét.

 Được làm bằng đồng.

 Một tỷ bản chân ngôn Trăm âm Kim Cương Tát Đỏa sẽ được chứa trong Kim Cương Luân để tịnh hóa tối đa ác nghiệp.

 Được đặt ngoài trời tại gần bảo tháp Swayambhunath, Kathmandu, Nepal.

 Ước tính nặng khoảng 30 đến 40 tấn khi hoàn thành.

Dự án Kim Cương Luân dự kiến sẽ hoàn tất và viên mãn vào dịp đầu năm 2013, nhân đại lễ mừng sinh nhật Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa, bậc khởi xướng dự án vì lợi ích mọi khổ não hữu tình (từ ngày 15 đến ngày 20/2/2013 tại Bảo tháp Swayambunath, Kathmandu, Nepal). Mỗi vòng xoay sẽ có diệu dụng tương ứng với việc trì tụng Chân ngôn trăm âm một tỷ biến, vì vậy, đạt được lợi ích bất khả tư nghì.

————————————————————————-

http://hoavouu.com/a23497/loi-cau-nguyen-duc-kim-cuong-tri

Chamgon Kenting Tai Situpa
LỜI CẦU NGUYỆN ĐỨC KIM CƯƠNG TRÌ
(The Dorje Chang Thungma)
Người dịch: Nguyên Toàn – Hiệu đính: Thanh Liên
Nhà xuất bản Tôn Giáoloicaunguyenduckimcuongtri-bia2

 

LỜI CẦU NGUYỆN
ĐỨC KIM CƯƠNG TRÌ
Biên soạn bởi
BENKAR JAMPAL ZANGPO
Luận giải bởi
CHAMGON KENTING TAI SITUPA

Lời cảm tạ

Chúng tôi xin bày tỏ sự biết ơn thành kính tới
Chamgon Kenting Tai Situpa, với lòng bi mẫn lớn lao
và trí tuệ vĩ đại, Ngài đã ban tặng chúng ta những lời
giảng quí giá này.
Chúng tôi cũng trân trọng cám ơn sự giúp đỡ của
Lama Tenam tôn kính, Rishi Jindal, Tiến sĩ Gyurme
Lodoe, Ni cô Tsomo, Ni cô Sherab, Ni cô Sanjay, Tiến
sĩ Heather Buttle, Marion Sallis và Judy & Laurie
Reiner, trong việc phiên âm, biên tập và hiệu đính bản
thảo của cuốn sách này.

Nguyện Giáo lý vô song và siêu việt này,
Kho tàng quí giá của các Vị Phật Chiến Thắng,
Luôn trải rộng và lan ra khắp chúng sinh
Như mặt trời chiếu sáng cả bầu trời

Copyright © 2010
Chamgon Kenting Tai Situpa &
Palpung Zhyisil Chokyi Ghatsal
This book is copyright. Apart from any fair dealing for the
purpose of private study, research, criticism or review as permitted
under the Copyright Act 1968, no part of this book may be stored or
reproduced by any process without prior written permission.
Enquiries should be made to the publisher.

Published by
Palpung Zhyisil Chokyi Ghatsal Publications
PO Box 6259 Wellesley Street, Auckland, New Zealand
Email: inquiries@greatliberation.org
Website: www.greatliberation.org
National Library of New Zealand Cataloguing-in-Publication Data
Pema Donyo Nyinje, Tai Situpa XII, 1954-
The Dorje Chang Thungma / Chamgon Kenting Tai Situpa
Bản quyền tiếng Anh : Palpung Zhyisil Chokyi Ghatsal Publications
Bản quyền tiếng Việt : Nguyên Toàn
Ghi chú: Những từ tiếng Tây Tạng trong cuốn sách này là phiên âm của cách phát âm.
Ảnh bìa trước: tượng Đức Kim Cương Trì, của ngài Ven. Choje Lama Shedrup
Bức ảnh màu: ngài Benkar Jampal Zangpo,
Thangka do Thanglha Tsewang vẽ, ảnh chụp của Professor Karma

LỜI NÓI ĐẦU

Trước hết, chúng tôi bày tỏ sự biết ơn sâu sắc tới
Palpung Zhyisil Chokyi Ghatsal Publications đã cho
phép chúng tôi dịch sang tiếng Việt và phát hành (với
hình thức ấn tống) cuốn sách “The Dorje Chang
Thungma” (Lời Cầu nguyện Đức Kim Cương Trì) của
Đại sư Kenting Tai Situpa thứ 12 tại Việt Nam. Chúng
tôi cũng xin cám ơn tới Lama Tenam tôn kính luôn luôn
tận tình giúp đỡ chúng tôi trong quá trình xin phép và
dịch thuật của cuốn sách này cũng như các cuốn sách
khác của Tai Situpa.

Xin gửi lời cám ơn trân trọng tới tất cả các quí đạo
hữu, những người đã đóng góp và hoan hỉ công đức để ấn
tống cuốn sách này.

“Lời Cầu nguyện Đức Kim Cương Trì” là tập hợp hai
bài giảng riêng biệt của ngài Tai Situpa. Bài giảng thứ nhất
là luận giải của ngài về Bài kệ “Lời Cầu nguyện Đức Kim
Cương Trì” của ngài Benkar Jampal Zangpo. Bài giảng thứ
hai là một giải thích cô đọng và súc tích về “Mối quan hệ
Guru và Đệ tử”. Trong các bài giảng của Tai Situpa dành
cho công chúng, ngài thường sử dụng những từ ngữ phổ
biến và các thí dụ đời thường cũng như pha trộn chút hài
hước để những giáo lý Phật giáo trở nên dễ hiểu hơn đối
với mọi người. Người dịch đã rất cố gắng để có thể chuyển
tải được những ý nghĩa sâu xa, uyên thâm trong bài giảng
của Đại sư, tuy nhiên do tâm trí còn hạn hẹp của người
dịch, nên bản dịch chắc chắn có thiếu sót, và mọi sai
sót là lỗi của người dịch.

Chúng con xin hồi hướng công đức này vì lợi lạc
và sự giác ngộ của tất cả chúng sinh!

Nguyên Toàn
Tp Hồ Chí Minh 6/2011

MỤC LỤC

Tiểu sử của ngài Chamgon Kenting Tai Situpa
Bài kệ lời cầu nguyện Đức Kim Cương Trì
Giới thiệu
Chúng ta cầu nguyện ai
Chuyển tâm ra khỏi luân hồi
Thành kính và Khát vọng
Không xao lãng
Lhagthong
Hồi hướng
Các câu hỏi
Mối quan hệ Guru – Đệ tử
Chú thích
Giới thiệu về Tu viện Palpung Sherabling

————————————————————-

http://kimcuongthuavietnam.vn/Hinh-Tuong-Cua-duc-Phat_tt.206.html

HÌNH TƯỚNG CỦA ĐỨC PHẬT
 Tinh Vân đại sư tác, Như Nguyện dịch

image

Đức Phật nhập diệt đã hơn 2500 năm rồi, sanh trong thời đại mạt pháp của chúng ta không thể chính mắt chiêm ngưỡng được dung nhan của Đức Phật, như vậy khiến ta nhớ đến lời của người xưa: “Lúc Phật tại thế thì chúng ta còn trầm luân, Phật diệt độ rồi chúng ta mới ra đời; sám hối bao nhiêu nghiệp chướng của thân này, không thấy được kim sắc của Như Lai”.

  Sau khi kim dung của hoá thân Phật nhập niết bàn, chúng ta chỉ có thể chiêm ngưỡng thánh tượng của Đức Phật, như vậy rốt cuộc Đức Phật có hình tướng như thế nào? Ai biết được?

1.      THÁNH TƯỢNG CỦA ĐỨC PHẬT

Các loại thánh tượng: Đức phật tướng hảo trang nghiêm, kim dung từ bi, hàng sơ học chỉ có thể dựa vào thánh tượng mới có thể nhận thức được Phật. Chủng loại thánh tượng của Đức Phật rất nhiều, có loại dùng gỗ đá để điêu khắc, có tượng dùng vàng để tạc, có loại vẽ trên giấy. Thánh tượng có tượng ngồi tượng đứng thậm chí có cả tượng nằm. Bất luận là tuợng điêu khắc bằng đá bằng gỗ tạc bằng vàng kim, thêu trên vãi hay vẽ trên giấy, bất luận là tượng đứng ngồi hay nằm đều thể hiện từ bi trang nghiêm tôn sùng vĩ đại của Đức Phật làm cho người ta nhìn thấy thì khởi tâm kính ngưỡng hâm mộ.

   Thánh tượng của Đức Phật tại sao có tượng ngồi? tượng đứng? tượng nằm? có thể nói mỗi một hình thức đều bao hàm ý nghĩa sâu sắc tượng trưng cho một loại tinh thần, một loại thánh cách của Đức Phật.

  Trước, chúng ta nói đến thánh tượng theo hình thức ngồi của Đức Phật. Trong tượng ngồi có ngồi kiết già đó là tượng của lúc đang ngồi thiền; có tượng thì tay trái đặt trên đùi chân, tay phải đưa lên lòng bàn tay hướng ra ngoài đó là tượng của hình thức đang thuyết pháp. Trước có thể nói tượng trưng cho tự giác của Phật, sau có thể nói tượng trưng cho giác tha của Phật. Tự giác là nói Đức Phật sở dĩ thành Phật là trãi qua tu hành tương đương ,tư duy quán chiếu, thâm nhập thiền định mới có khã năng chứng đắc quả vị; Giác tha là nói Đức Phật từ Thể mà khởi Dụng, lấy chân lý rộng làm lợi ích chúng sanh, lấy pháp thuỷ tịnh hoá nhân quần.

  Kế đến chúng ta nói thánh tượng theo hình thức đứng: tượng đứng có hình dạng rủ cánh tay xuống, là trong lúc tiếp dẫn chúng sanh, có tượng một chân bước trước đó là diễn tả lúc bận việc giáo hoá. Cánh tay rủ xuống tiếp dẫn chúng sanh, nhìn thấy cánh tay từ bi duỗi ra của Đức Phật, những con người phiêu bạt trong biển khổ thế nào mà không có mong muốn quay đầu trở về quy y Phật? Bận việc giáo hoá, đó là thể hiện Đức Phật với thể nghiệm chân lý nhân sanh của Ngài, tràn đầy nhiệt huyết, tuy Ngài công hạnh viên mãn nhưng cần dùng chân lý vì chúng sanh mà phục vụ.

  Sau cùng chúng ta nói về thánh tượng theo hình thức nằm của Đức Phật: Trong tượng nằm có loại nằm theo dáng kiết tường khi ngài nhập niết bàn, niết bàn là phước hụê vẹn toàn đạt đến cảnh giới bất sanh bất diệt. Tượng Đức Phật niết bàn có thể nói lên ý ngĩa do động quy về tịnh. Đức Phật lúc tại thế thuyết pháp giáo hoá đó đều là do tịnh sanh động, động có lúc cũng ngưng, tịnh thì vô cùng dài. Sanh mệnh của Đức Phật len lỏi khắp trời đất, lưu nhập trong thời gian vô tận nên gọi là do động quy tịnh. Bởi vì trong thánh tượng của Phật, có một dạng thị hiện niết bàn, nhưng Phật vĩnh viễn sống trong tâm của chúng ta, sáng mãi với thời gian, song hành cùng trời đất.

  Khởi nguyên của việc khắc tượng: Vấn đề điêu khắc tượng Phật bắt đầu từ khi nào? Theo quyển 28 kinh Tăng Nhất A Hàm và quyển 5 Đại Đường tây vực ký nói rằng: “Vào một mùa an cư của năm nọ, tăng đoàn không nhìn thấy Đức Phật, Ngài đi đâu không ai biết được, chư vị đệ tử đến hỏi tôn giả A Nan, ngài A Nan cũng không biết. Nhưng tôn giả Anan giới thiệu mọi người đến thỉnh ý bậc thiên nhãn đệ nhất là ngài A Nan Luật. Sau khi tôn giả A Nan Luật nhập định quan sát liền nói với mọi người rằng: Đức Phật đã lên cung trời Đao Lợi thuyết pháp cho hoàng hậu Ma Gia”.

  Đức Phật vì sao không nói mà đi lên cung trời Đao lợi thuyết pháp? một là, Ngài muốn báo đáp công ơn dưỡng dục của thánh mẫu; hai là, vì Đức Phật thường ở bên cạnh chúng đệ tử, nên một số người ỷ lại không thích nghe phật thuyết pháp; ba là vì trong tăng đoàn có một số việc tranh chấp nên Ngài ra đi thời gian khiến cho những người tranh chấp có thể thật lòng ăn năn tỉnh ngộ. Đại chúng trong giáo đoàn sau khi biết được Đức Phật lên cung trời Đao Lợi trong lòng hoang mang. Người nhớ Phật nhiều nhất là vua Ưu Điền nước Bạt Sa, vua Ưu Điền sau lần đầu được vương phi hướng dẫn quy y Phật, đối với Phật sanh tâm cung kính cúng dường vô tận. Bây giờ nghe tin Phật đi xa nhiều ngày không gặp trong lòng lo buồn mà sanh bệnh. Khi vua lâm bệnh, các đại thần bàn bạc nhau các phương pháp trị bệnh cho vua, trong đó có kiến nghị mời các vị thợ điêu khắc nỗi tiếng tạc tượng Đức Phật, để tiện sớm tối chiêm ngưỡng lễ bái. Vua vui mừng khôn xiết liền thỉnh ngài Mục Kiền Liên bậc thần thông đệ nhất dùng sức thần thông đưa người thợ điêu khắc lên tận cung trời để đích thân nhìn thấy kim dung diệu tướng của Phật sau đó dùng gỗ chiên đàn khắc thánh tượng Phật cao 5 mét, tôn giả Mục Kiền Liên đã phải trực tiếp hướng người thợ dẫn 3 lần, thánh tượng chiên đàn mới hoàn thành. Vua Ưu Điền nhân đó mà hết bệnh vui mừng khôn tả.

 Đức Phật thuyếp pháp ở cung trời Đao lợi 3 tháng, và sau đó ngài trở lại nhân gian, Thánh tượng chiên đàn dựng để nghinh đón Đức Phật, Ngài mỉm cười nhìn thánh tượng an ủi rằng; “ Ngài giáo hoá có vất vã lắm không? Chúng sanh đời mạt pháp thật là nhờ vào sự hoá độ của ngài đó”! Do đó mà nói điêu khắc thánh tựơng không phải là sau khi Phật niết bàn mà ngay khi Phật tại thế đã có tạc tượng cúng dường rồi. Điêu khắc chiên đàn thánh tượng để nghinh đón Phật đó là biểu trưng cho: dù là kim thân Phật hay thánh tượng đều là sống một cách linh hoạt tại thế gian này.

  Khởi nguyên của việc đúc tượng:những vấn đề đến việc đúc tượng phật ,có từ khi nào? Theo quyển 28 kinh Tănh nhất A Hàm và Căn bản thuyết Nhất thiết hữu bộ ni đà na có chép rằng: “một là, vua Ba Tư Nặc nước Kiều Tát La nghe vua Ưu Điền Dùng gỗ chiên đàn khắc thánh tượng Phật, cũng vì lòng cung kính và thích làm nỗi nên dùng vàng đúc thánh tượng cao 5 mét, đó là việc đúc tượng Phật sớm nhất vậy.

Hai là, trưởng giả Cấp Cô Độc. Có một lần sau khi Đức Phật thuyết pháp ở tịnh xá Kỳ Viên, trưởng giả đến trước đảnh lễ và bạch Phật rằng: “bạch Thế Tôn khi có thánh tượng của Ngài dựng ở trong giáo đoàn, mọi việc trở nên trang nghiêm, uy nghi, thanh tịnh như pháp mà sanh hoạt; có lúc Phật đi nơi khác giáo hoá, ở đây không có ngài làm trung tâm nên thấy thiếu một điều gì đó và tăng chúng từ trong tâm linh của mỗi người cũng cảm thấy trống trải hiu quạnh. Chúng con khẩn cầu Ngài cho chúng con đúc tượng Ngài để mỗi khi Ngài đi hoằng hoá ở xa chúng con có thể chiêm ngưỡng và xem thánh tượng như nhìn thấy chính Ngài, như vậy mới có thể duy trì được sự thanh tịnh của giáo đoàn, làm cho uy đức của Phật luôn luôn chiếu sáng chúng ta”!

  Sau khi Đức Phật nghe xong ,ngài vui vẻ đồng ý ý kiến của Cấp Cô Độc và từ bi  chỉ dạy: “ Bệ hạ vì Phật Pháp mà đưa ra mong cầu như vậy, Ta đồng ý tâm nguyện của Ngươi”. Cấp Cô Độc lại bạch Phật “bạch Đức Thế Tôn! Bên cạnh chổ đúc thánh tượng chúng con muốn treo tràng phan bảo cái và hương hoa cúng dường xin Phật hứa khả cho. Đức phật nói: “ tuỳ ý các người thôi”.

Từ hai đoạn kinh trên chúng ta thấy khi Phật còn tại thế có rất nhiều vị quốc vương, đại thần, trưởng giả ,cư sĩ,…phát tâm đúc thánh tượng cúng dường chiêm ngưỡng rồi.

Khởi nguyên của việc hoạ tượng: những vấn đề liên quan đến việc vẽ tượng có từ khi nào? Ở “Đại Đường nội điển lục”có chép rằng “Tần Cảnh thời Hán trên đường trở về nước Nguyệt Chi nhìn thấy tượng chiên đàn của vua Ưu Điền liền nhờ hoạ sĩ y theo đó mà vẽ một bức sau đó mang đến Lạc Dương, nhà vua nhìn thấy liền ra sắc lệnh để tại của thành Tây Dương cúng dường từ đó lưu truyền đến nay.

Ngoài ra “Hành sự sao” cũng có ghi “sau thời Hán các vị tăng Trung Quốc đến Ấn Độ du học đông, lúc trở về họ đều muốn thỉnh tượng chiên đàn về để cúng dường. Thời đó các vị quốc vương của Ấn Độ rất cung kính và bảo vệ thánh tượng này không cho mang ra khỏi nước, nhưng Phật Pháp lưu thông phải có cái gì để biểu trưng,Vua liền mời hoạ sĩ đến y theo tượng chiên đàn mà vẽ, ngày nay có lưu truyền sự việc hoạ tượng là nguyên nhân từ đó.

  Theo đó mà biết thì hoạ tượng Phật khoảng sau Phật niết bàn hơn 1000 năm nay nhưng ngoài ra trong “kinh a hàm” cũng có chép: “khi Phật niết bàn, tôn giả Ca Diếp lo vua A Xà Thế nước Ma kiệt Đà nghe được tin này sẽ quá bi thương mà sãy ra những việc ngoài ý muốn nên cùng với đại thần Vũ Xá thương luợng hoạ thánh tượng Phật để giúp vua bớt nỗi đau thương, đại khái đó là việc hoạ tương sớm nhất vậy!

  Nhưng những năm gần đây tại viện bảo tàng Anh quốc hoàng gia có lưu giữ rất nhiều bức hoạ tượng Phật, trong đó có một bức tượng được xem là quốc bảo, đó là bức tượng lúc Phật 41 tuổi do tôn giả Phú Lâu Na tự tay hoạ, màu sắc vẫn giữ nguyên đến ngày nay. Một vị trù trì chùa Vĩnh Bình Nhật Bản đến nước Anh chụp hình mang về và sao ra nhiều tấm nên hiện tại ở Đài Loan chúng ta có thể nhìn thấy tượng này. Chiếu theo thuyết nay thì hoạ tượng Phật là có sớm nhất và còn sớm hơn cả điêu khắc và đúc tượng mấy năm cũng không chừng.

  Họa tượng Phật trong quyển thượng Du Gìa nghi quỹ có ghi “các bức tượng hoạ trên vải trên lụa lớn nhỏ tuỳ ý, đều ngồi kiết già trên đài sen hai tay để ngang rốn như lúc nhập định”. Hoạ tượng rất phương tiện, tín chúng có thể ở nhà mà lễ bái cúng dường, hào quang của Phật chiếu sáng mọi nhà, người hoạ tượng có công đức vô lượng”.

  Đảnh lễ thánh tượng: thánh tượng Đức Phật được điêu khắc trên gỗ hoặc đá, hoạ vẽ trên vãi lụa ,có người nói đó chỉ là cái tượng phỗng, tại sao phải hướng về đó mà đãnh lễ? Có một vài linh mục thiên chúa giáo phê phán Phật giáo vì sao lạy những tượng gỗ đá vãi lụa làm gì? Chúng ta cũng không phủ nhận chúng ta lễ bái tượng này. bởi vì tất cả đều không lìa khỏi lễ bái tượng gỗ…Chúng ta thấy đấy, mọi người trên toàn thế giới đều hướng về lá cờ quốc gia (quốc kỳ) của mình kỉnh lễ, mà quốc kỳ không là giấy thì cũng là vải, tại sao chúng ta lại kính lễ giấy hay vãi như thế? Nên biết lá cờ đó là trung tâm của toàn dân một nước nó không phải là giấy hay vãi mà là đại biểu tượng trưng cho một quốc gia.Tín đồ thiên chúa lại hướng về thập tự giá mà cầu nguyện.Trên thập tự giá còn đóng đinh một Giesu rất đáng thương và tội nghiệp, thập tự giá và Giesu không phải làm bằng gỗ bằng sắt hay vẻ trên giấy đó sau, vì sao tín đồ thiên chúa giáo lại hướng về gổ sắt giấy đó mà quỳ xuống cầu xin.

   Cho nên, tất cả mọi người đều không lìa khỏi việc lễ bái tượng gỗ,… hướng về tượng gỗ lễ bái chẳng có gì là không tốt. Một giới trong 10 giới của tín đồ thiên chúa là không lễ bái tượng gỗ,…đó chỉ là một trong trăm ngàn những điều mâu thuẫn trong giáo lý của họ mà thôi.

  Một mảnh vải nếu làm thành mũ thì đội trên đầu, nếu làm thành giày thì mang dưới chân, vải chưa có giá trị là quý hay hèn mà khi làm thành vật rồi thì mới có giá trị; một trang giấy nếu in thành hình của ba mẹ thì mình nên trân quý cung kính và cất giữ, nếu trang giấy đó chỉ là hình vẽ chơi của trẻ con thì chúng ta tuỳ ỳ vất bỏ cũng không thấy có gì là không phải, như vậy giấy có quý có tiện không? Đó chỉ là do tâm chúng ta khởi lên có quý có tiện mà thôi. Các vật thể thuộc vàng hoặc nguyên liệu hoá học nếu tạc thành tượng Phật Thánh thì nên tôn kính lễ lạy, nếu làm thành đồ chơi cho trẻ con thì giống như con lật đật để trên mặt đất đá qua đá lại làm trò cười cũng không có gì không được. Tất cả vật chất đều như nhau làm thành gì thì thành đó. Thánh tượng của Phật cũng làm từ vàng gỗ đá vãi giấy nhưng cái đó trong tâm của chúng ta không phải vàng gỗ …mà là Thánh tượng đại trí đại giác của Phật Đà!

 Xin hỏi tín đồ thiên chúa giáo nếu đem hình cha mẹ các bạn, tượng Giesu của các bạn khinh bỉ vất bỏ, trong tâm bạn sẽ cảm thấy thế nào? Các bạn đối với tượng gỗ… có khởi tâm phân biệt không? Xin các tín đồ thông minh của thiên chúa phản tỉnh một chút. Sùng bái tượng gỗ không có gì là chẳng tốt đó là biểu hiện quan niệm trong lòng có thánh hiền của chúng ta.

  Từ trên sự tướng mà nói, chúng ta tu hành nên có mục tiêu, tượng gỗ có thể làm cho chúng ta phát khởi tín tâm, trợ giúp việc tu trì của chúng ta, lúc chúng ta chiêm ngưỡng thánh tượng từ bi của Phật trong tâm ta đình chỉ vọng nịêm tham sân; Lúc chúng ta đãnh lễ tướng hảo trang nghiêm của Phật, hành vi trở nên đoan chánh không dám buông lung. Chúng ta đối trước thánh tượng cung kính lễ bái chắc chắn có cảm ứng.

  Từ trên pháp tánh mà nói, là tín đồ Phật giáo chân chánh không có quan niệm tượng gỗ… , xem một công án của thiền sư thì sẽ rõ.

  Đan Hà thiền sư, lúc tá túc qua đêm ở một ngôi tự viện, khí hậu khắc nghiệt, thời tiết rét lạnh, tuyết rơi xối xả. Đan Hà thiền sư liền lên điện Phật lấy tượng gỗ xuống chẻ ra đốt sưởi ấm. Thiền sư giữ chùa nhìn thấy tức giận la lớn: “đồ đáng chết, thế nào có thể đem tượng Phật xuống đốt sưởi ấm chứ”?

Đan Hà thiền sư từ tốn trả lời: “ Tôi không đốt sưởi ấm mà đốt tìm xá lợi”

Thiền sư giữ chùa lại hùng hổ la lên: “nói bậy, tượng Phật gỗ mà có xá lợi à”?

Đan Hà thiền sư từ từ cầm lấy bức tượng để vào trong lửa nói: “đã là gỗ sao không lấy mà sưởi ấm chứ”.

Đan Hà thiền sư mới đúng là người đệ tử chân chánh của Phật giáo, Ngài mới là bậc thánh liễu ngộ được Phật và giác ngộ đạo lý Tâm -Phật- Chúng sanh tuy ba nhưng không sai biệt. Lúc chưa giác ngộ chúng ta kính lễ thánh tượng, sau khi giác ngộ rồi ngoài tâm không có Phật, đó có thể nói thánh tượng ở trong tâm mình.

Đường Tuyên Tông lúc chưa đăng cơ là một chú tiểu nhìn thấy Hoàng Phách Hy Vận thiền sư lễ Phật ở giữa chánh điện thì đứng phía sau chăm chú nhìn, bổng nhiên nhớ lại lời thiền sư thường nói liền bạch thiền sư rằng: “ Ngài thường nói không cầu Phật, không cầu Pháp, không cầu tăng, bây giờ Ngài lạy Phật là để làm gì”?. Thiền sư nghe thế nhướng mắt nhìn Tuyên Tông nói: “không cầu Phật, không cầu Pháp, không cầu tăng , nên như thế mà làm”!

Lời của Hy Vận thiền sư những người căn cơ thấp kém khó mà thể hội được chân lý, chúng ta nên hướng về thánh tượng Đức Phật mà đãnh lễ, chúng ta nên lạy tượng gỗ,… bởi vì như thế thì tâm phàm phu chúng ta và tâm Phật mới có thể giao hoà hợp nhất.

2.      KIM DUNG CỦA ĐỨC PHẬT

Kim thân Phật: Hình tướng chân thật của Phật là pháp thân thanh tịnh vô vi, từ pháp thân lý thể mà hiển thị diệu dụng, đó là kim dung của Hoá thân. Pháp thân của Phật, các bồ tát đăng địa không có khả năng lường biết được, đệ tử Phật chỉ có thể từ tướng hảo của kim dung mà hiểu biết được sự vĩ đại của Phật.

Kinh Tâm Địa Quán có nói: “tướng trăm phước chói sáng trang nghiêm,chúng sanh trông thấy phát tâm kính mến hoan hỷ”. Hơn 2500 năm trước Gíao chủ Thích Ca vì một đại sự nhân duyên mà đản sanh ở thế giới này, có tướng tốt trăm phước trang nghiêm, đó là 32 tướng tốt 80 vẽ đẹp thánh tướng của Phật. Thân của Phật là màu huỳnh kim cao một trượng 6 thước, kinh A Hàm nói: “kim dung Phật là vầng trăng tròn sáng”. Trong chúng đệ tử của Phật, có rất nhiều vị thánh đệ tử,chưa nghe Phật thuyết Pháp,chỉ mới nhìn thấy kim dung của Phật liền quyết chí quay về quy y rất nhiều. Tôn giả Đại Ca Diếp, là một bậc hào phú Bà la môn ở tháp Đa Tử gặp Phật tỉnh toạ ở dưới cội bồ đề, ngài bị kim dung tướng hảo của Phật nhiếp thọ bất tri bất giác hướng về đảnh lễ và tuyên thệ gia nhập giáo đoàn của Phật.Trưởng giả Tu Đạt là vị khách phương nam, trong một đêm gặp Đức Phật, dưới ánh trăng chiếu sáng Ông nhìn thấy thánh tướng của Phật liền cảm động quỳ xuống, thỉnh cầu Phật về quê hương mình tuyên truyền chân lý phổ độ chúng sanh.

Trong sự nghiệp truyền giáo của Phật, Ngài nhiếp phục những người cực ác quay đầu, cảm hoá những người ngoan cường quy y, có rất nhiều người cũng do tướng tốt uy nghiêm từ bi của Phật mà được nhiều lợi ích.Một tên phản đồ là Đề Bà Đạt Đa mua chuộc 6 tên cướp đi hành khích Phật nhưng bị kim dung của Phật phát ra ánh sáng oai đức chinh phục, 6 tên cướp này đều lập tức bỏ dao quỳ xuống trước Phật cầu xin sám hối; Ương Quật là một tên ma vương giết người không gớm tay. Đức Phật cố ý gặp ông ta trên đường, một tên đội trời đạp đất như Ương Quật mà vừa nhìn thấy kim dung Phật liền trong long kinh ngạc cúi đầu thành khẩn xin phật hứa giúp cho mình cải ác hành thiện làm lại cuộc đời. Khỉ vượn trong rừng hái trái cúng dường trước kim thân Phật, voi điên nhìn thấy kim dung của Phật cũng rơi lệ ăn năn. Kim dung của Phật sáng như mặt trời mặt trăng, tướng Phật trang nghiêm vạn đức khiến cho những người hung ác khởi tâm từ bi, những người tàn ác trở nên từ hoà. Trong 50 năm truền giáo những người được cứu độ từ kim dung của Phật nhiều vô số kể.

Kim dung tướng hảo: Hình dung kim dung tướng hảo của Phật, trong kinh đều có nói Phật có “32 tướng tốt, 80 vẽ đẹp” đó là hình trạng vi diệu, tướng hảo của Phật, có thể vừa nhìn là hiểu tướng của Phật, không dể mà có điều tốt làm người ta vừa nhìn thấy khởi tâm kính mến hoan hỷ. 80 vẽ đẹp là do 32 tướng tốt mà có.

Tướng viên mãn 32 tướng tốt này không phải do trời sanh như vậy mà do Phật trãi qua 91 đại kiếp tu hành mới thành tựu được. Nên kinh Bách Phước Trang Nghiêm nói: tu 100 phước mới trang nghiêm được một tướng. Sau đây chúng ta tìm hiểu 32 tướng tốt và 80 vẽ đẹp của Phật như trong kinh đã ghi.

Trước chúng ta nói về 32 tướng tốt:

1.    Dưới lòng bàn chân bằng thẳng không có lòm lõi.

2.    Dưới lòng bàn chân có hình bánh xe, với ngàn tăm xe trục xe, vành xe đầy đủ.

3.    Chân tay mềm mại không thô cứng.

4.    Ngón tay nhỏ dài trắng nỏn như tuyết

5.    Tay chân có màng da lưới.

6.    Gót chân thon tròn đầy không có lồi lõm.

7.    Có mắt cá tròn

8.    Ống chân tròn đầy như con nai chúa.

9.    Tay dài quá gối, lưng thắng như núi.

10. Nam căn ẩn tàng bên trong

11. Tướng lưỡi rộng dài

12. Mỗi chân lông chỉ mọc 1 sợi lông có màu xanh và thoảng ra mùi thơm

13. Lông mọc xoáy lên và xoáy về hướng mặt.

14. Thân hình có màu sắc như vàng kim.

15. Thân có hào quang, phát ra các phía.

16. Da mịn trơn nhu nhuyến như dầu.

17. Hai vai bằng thẳng không khuyết

18. Hai nách đầy đặn không có lỏm

19. Thân cao thẳng, uy nghi đỉnh đạc

20. Thân hình đoan chánh không có cong vẹo uốn éo

21. Lòng bàn tay chân bằng thẳng

22. Có đủ 40 răng

23. Răng đều đặn và trắng đẹp

24. Răng bằng thẳng không hở khuyết.

25. Hai má tròn đầy như má sư tử

26. Trong cổ họng thường tiết ra nước bột đầy đủ cam lồ mỹ vị

27. Lưỡi rộng ,dài và mềm mại.

28. Âm thanh như tiếng chim Ca lăng tầng già, ở xa cũng có thể nghe.

29. Mắt màu tím thẫm, trong như nước biển

30. Lông mi đặc thù phi phàm.

31. Giữa hai lông mày có lông trắng phóng hào quang

32. Trên đảnh đầu có nhục kế, và không nhìn thấy đảnh đầu.

Thứ đến là 80 vẽ đẹp:

1.    Không thấy đảnh tướng

2.    mũi cao thẳng, lổ mũi không lộ

3.    Lông mày như trăng non

4.    Trái tay rũ xuống

5.    Thân rắn chắc

6.    khớp xương chắc như móc khoá

7.    Mỗi lúc trở mình chuyển hình như voi chúa

8.    Đi cách đất và có ấn dấu chân

9.    Móng như màu đồng đỏ

10. xương đầu gối tròn đẹp

11. Thân trong sạch

12. Da mềm mại

13. Thân cao đẹp không cong vẹo

14. Ngón tay tròn thon nhỏ

15. Vân tay ẩn kín

16. Mạch sâu chẳng hiện

17. Mắt cá ẩn

18. Thân mềm mại mượt mà

19. Thân hình tròn đầy

20. Không uốn éo

21. Dung nghi đầy đủ

22. Đi đứng khoan thai

23. Đứng không động

24. Uy chấn hết thảy

25. Người thấy được an lạc

26. Khuông mặt vừa vặn

27. Dung mạo đoan chính

28. Diện mạo viên mãn

29. Môi màu sắc đỏ

30. Âm thanh vang trầm trong vắt

31. Rốn sâu tròn đẹp

32. Lông xoáy về hướng phải

33. Tay dài qua gối

34. Tay chân như ý

35. Vân tay sáng thẳng

36. Vân tay dài

37. Vân tay chẳng đứt

38. Người thấy hoan hỷ

39. Mặt rộng và đẹp

40. Mặt như vầng trăng tròn

41. Nói năng hoà nhã

42. Lỗ chân lông xuất ra mùi thơm

43. Trong miệng thaỏng ra hương thơm

44. Dáng điệu cử chỉ như sư tử

45. Đi đứng như voi chúa

46. Tướng đi như ngỗng chúa

47. Đầu như trái Ma đà na

48. Các thành phần đầy đủ

49. Răng trắng đẹp

50. Lưỡi dài có màu đỏ

51. Lưỡi mỏng mà rộng

52. Lông nhiều và có màu hồng

53. Lông mềm mà mướt

54. Mắt dài và rộng

55. Tướng tử môn đầy đủ

56. Tay chân trắng hồng như màu hoa sen

57. Rốn không lộ

58. Bụng không lồi

59. Bụng thon đẹp

60. Thân khuynh động

61. Thân trì trọng

62. Thân lớn dài

63. Tay chân mềm mại sạch bóng

64. Bốn phía có hào quang dài một trượng

65. Khi đi có hào quang chiếu sáng khắp thân

66. Xem chúng sanh bình đẳng như nhau

67. Không xem thường chúng sanh

68. Thân tướng hùng vệ

69. Âm thanh không tăng giảm

70. Thuyết pháp không chấp trước

71. Tuỳ duyên thuyết pháp

72. Thứ đệ thuyết pháp

73. Pháp âm ứng với âm tahnh của chúang sanh

74. Chúng sanh ngắm thân Phật ngắm mãi không hết

75. Ngắm mãi không chán

76. Tóc dài và đẹp

77. Tóc dài không rối

78. Tóc xoắn đẹp

79. Tóc như màu ngọc xanh

80. Đầy đủ tướng tốt của bậc phước đức

Trên đã nói rõ 32 tướng tốt,80 vẽ đẹp của Đức Phật, như trong kinh đã ghi chép, tuy có chút them bớt nhưng kim dung của Ngài khác với phàm nhân, bất khả tư nghì.

  Kỳ thật, Kim dung của Phật có thể hình dung trong 32 tướng tốt 80 vẽ đẹp, đó cũng là cách nói Phật có sắc tướng thân vàng cao 6 mét. Lúc đó có ngoại đạo hoài nghi nên dùng thước đo thử Phật cuối cùng cao bao nhiêu nhưng đo mãi mà vẫn không hết. Như tiểu thuyết Tây du Ký kể rằng: Tôn Ngộ Không nhảy lộn một cái là 18.000 dặm, thế nhưng lộn 10 cái cũng lộn không qua lòng bàn tay của Phật, như vậy chúng ta có thể hình dung được kim dung tướng tốt của Phật cao hơn cả núi Thái, sâu rông hơn cả đại dương.

 Trong 32 tướng tốt có tướng lưỡi rộng dài, đó là hình dung âm thanh thuyết Pháp của Phật, ở rất xa cũng có thể nghe. Âm thanh của Ngài có thể truyền đi xa bao nhiêu? Trong kinh Bảo Tích nói: “bậc đại thần thông đệ tử của Phật là ngài Mục Kiền Liên, có một lần muốn đo thử âm thanh thuyết pháp của Phật, liền bay đến Đông phương Phật quốc cách thế giới Ta bà xa vô cùng tận để đo lường âm thanh của Phât, và vẫn nghe được Phật thuyết pháp. Hiện tại ở châu Âu châu Mỹ phát sóng chúng ta cũng có thể nhận được huống chi công đức cao vời vợi của Phật xuất ra từ tướng lưỡi rộng dài biến khắp tam thiên đại thiên thế giới?32 tướng tốt 80 vẽ đẹp chỉ là phàm phu chúng ta hiểu về Phật, Kim dung tướng tốt chân chánh của Phật chẳng lẻ 32 tướng tốt 80 vẽ đẹp có khả năng bao hàm sao?

TÁM TƯỚNG THÀNH ĐẠO:

Kim dung của Phật tuy là tướng tốt vô luợng nhưng Ngài đản sanh trong nhân gian thì ngài vẫn là con người. Liên quan đến kim dung ứng hoá thân của Phật, giáo hoá ở nhân gian 80 năm, nói rõ trãi qua một đời của Đức Phật, đó là 8 tướng thành đạo, sau đây là lược thuyết 8 tướng.

  Từ cõi Đâu Suất mà giáng sanh: Đức Phật được phật Nhiên Đăng thọ ký là bổ sanh bồ tát của thế giới Ta bà, trước phải ở nội viện của cõi Đâu suất trãi qua 4000 năm, để quán sát cơ duyên gíao hoá ở cõi Ta bà.

Nhập thai: Sau khi ở nội viện của cõi Đâu Suất tròn 4000 năm, cởi voi trắng sáu ngà từ cõi trời mà giáng thế, nhập thai vào nách phải của thánh mẫu Ma Gia.

Đản sanh:Vào ngày 8 tháng, đản sanh tại vườn Lâm tỳ ni, vừa đản sanh đã có thể đi bảy bước và nói rằng: “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn”.

Xuất gia: Lúc 19 tuổi, nhân vì cảm nhận được cuộc đời vô thường, kẻ mạnh ăn thịt kẻ yếu, cuộc đời nhiều bất công, liền quyết chí vượt thành xuất gia học đạo.

Hàng phục ma quân:Lúc tu đạo, nội tâm có ma phiền não tham sân si, ngoại cảnh có ma thanh sắc danh lợi, chinh phục các tà ác của ma quân và không bị nữ sắc mê hoặc. Đó là tinh thần hàng phục ma tất yếu của bậc vô uý đại hùng đại bi đại trí.

Thành đạo: Sau khi hàng phục ma ,vào ngày 8 tháng 12, trên toà kim cang dưới cội Bồ đề, lúc sao kim mọc chứng thành chánh giác.

Chuyển pháp luân: Sau khi thành đạo suốt 50 năm giảng kinh thuyết pháp, đem chân lý truyền khắp nhân gian, làm cho bánh xe pháp thường chuyển ở đời.

Niết bàn: Ngày 15 tháng 2 năm Ngài đúng 80 tuổi, nhân duyên giáo hoá đã viên mãn, vì động quy tịnh, đem sanh mệnh hoà nhập vào vũ trụ tạo hoá, dưới cội Sala thị hiện niết bàn.

Đức Phật là bậc đại thánh ở thế gian và đã sanh ra ở thế gian này,tướng hảo kim dung của Ngài tuỳ theo mỗi thời như trẻ thơ, nhi đồng, thanh niên, tráng niên, lão niên mà không giống nhau, tôn giả Đại Ca Diếp bảo đại thần Vũ Xá hoạ vẽ 8 tướng thành đạo, thông qua đó nói rõ di tích một đời hoằng hoá của Phật.

Kim Thân bị nạn:Thánh thân kim dung của Đức Phật sao mà trang nghiêm tốt đẹp, chúng ta cứ nghĩ rằng ứng thân của phật sinh hoạt tại thế gian, tuỳ tâm như ý không có gì là trở ngại, đó là cách nghỉ sai lầm.

  Gíao Pháp của Phật nói rõ sự vô thường khổ của thế gian, những người đã thành phật rồi, có xa lìa vĩnh viễn và nằm ngoài định luật này không? Tuyệt đối không có đạo lý như vậy.Từ biến hoá thánh thân kim dung một đời của Phật, nói rõ chân lý chư hành vô thường của thế gian. “ Thân giáo phải khớp với ngôn giáo”, Đức Phật giảng về đạo lý khổ- vô thường- vô ngã ở thế gian mà ngược lại thân Ngài thì ngàn năm trẻ mãi, không bệnh, không già như vậy chẳng phải mâu thuẩn đó sao? Đức Phật thị hiện ở thế gian ngài có sắc thân nên kim dung tướng hảo cũng phát sanh không ít những tai nạn.

  Bất luận nói thế nào, những công đức tu tập tích tụ nên 32 tướng tốt,80 vẽ đẹp luôn vì có thân tướng hữu vi, không phải là pháp thân vô vi, thánh thân kim dung hữu vi biến hoá của Phật bị các tai nạn cũng là việc bình thường thôi.

  Lúc Phật đi đường gặp hai tai nạn, một lần là Ngài đi qua núi Kha địa la bị một cây độc có tên là Khiếp đà la gỗ rớt xuống tua tủa làm mắt cá bị thương ; lần thứ hai là lúc Ngài đi ngang dưới chân núi Kỳ xà quật bị Đề Bà Đạt Đa lăn đá xuống làm cho chân phải rướm máu. Đức Phật cũng tuyên bố trong đại chúng hai lần Ngài bị bệnh. Một là lúc danh y Xà Bà điều trị bệnh kiết cho Ngài; lần khác là lưng ngài đau sai tôn giả Anan vào thành xin sữa và bảo tôn giả Đại Ca Diếp trì niệm Thất bồ đề phần thì Ngài mới hết đau. Đức Phật cũng có hai lấn gặp nạn đói, là lúc an cư ở thôn Bà La gặp năm mất mủa đói khát, trong 3 tháng an cư chỉ ăn lúa ngựa, lần khác thì đi khất thực nhưng không có thức ăn mang bình bát không về nhịn đói chờ đến ngày mai.

Đức Phật cũng bị một phụ nữ ngoại đạo vu oan, bị vua Thiện Gíac của thành Câu Lợi phê phán và những người này đều nhận lấy kết quả bất hạnh. Một nhà tôn giáo vĩ đại luôn có tai nạn bức hại thử thách tinh thần.

  Kim dung thánh thân của Phật gặp rất nhiều tai nạn như vậy, chúng sanh nếu không hiểu được ý nghĩa sâu xa của lý nay dể sanh tâm nghi ngờ. Vì thế vua Ba Tư Nặc nước Kiều Tát La đã từng đưa ra vấn đề này thỉnh vấn Đức Phật như sau: “Bạch Thế Tôn! Kim dung tướng hảo của Ngài, phẩm đức oai nghiêm, trên trời và nhân gian không ai có được, nhưng trong sự nghiêp truyền bá chân lý của Ngài, vì sao phải gặp một số tai nạn” ?

  Phật dạy: “Đại vương! pháp thân của chư Phật Như Lai là thân vĩnh hằng, nhưng vì độ chúng sanh mới có ứng hiện những tai nạn, những việc như: mắt cá chân bị thương, đau lưng, xin sữa, uống thuốc cho đến niết bàn, phân chia xá lợi xây tháp cúng dường tất cả đều là những phương tiện thiện xảo là vì muốn cho chúng sanh biết được nghiệp báo không mất, làm cho chúng sanh có tâm sợ sệt mà đoạn trừ tội lỗi, tu các hạnh lành mới chứng đắc pháp thân vĩnh hằng, tuổi thọ vô cùng ,quốc độ thanh tịnh, không có sắc thân hữu vi lưu luyến thế giới Ta bà.

  Vua Ba Tư Nặc nghe xong dứt hết nghi ngờ, vui vẽ reo mừng, Vua không chỉ hiểu thấu đáo được kim dung của Phật mà còn thể hội được tâm từ bi sâu xa của Phật!

 Đức Phật bậc thầy vĩ đại, kim dung thánh thân của Ngài tuy chúng ta không thấy nhưng Ngài vẫn sống mãi trong tâm chúng ta. Hình ảnh trăm vạn nhân thiên của Linh sơn hội thượng và Phật trang nghiêm tướng hảo ngồi chính giữa vẫn còn lởn vởn trong đầu chúng ta: “ Trên trời dưới đất không ai bằng Phật, mười phương ba đời cũng không ai sánh kịp; Tất cả những người ở thế gian con nhìn thấy, hết thảy không ai như Phật vậy”.

3.    CHÂN THÂN CỦA ĐỨC PHẬT

Chân thân vô tướng: Thánh tượng của Đức Phật, chúng ta đi đến đâu cũng có thể chiêm ngưỡng; Kim dung của Phật, hơn 2500 năm trước quả là đã xuất hiện ở thế gian, nhưng chân thân của Phật có hình tướng như thế nào?

  Chân thân của Phật là pháp thân, pháp thân mới là hình tướng chân chánh của phật, nhưng pháp thân vô tướng hàng Bồ tát củu trụ còn không thể thấy, huống gì chúng ta là những chúng sanh bị vô minh phiền não che mờ? Pháp thân, vô vi vô tác, không hình không tướng, không đến không đi, không đầu không cuối, chúng ta làm sao mới có thể nhìn được Pháp thân của Phật chứ?

 Trong kinh có chép: “đoạn một phần vô minh, chứng một phần pháp thân” cho nên có thể thấy Pháp thân không phải ở trên hình tướng mà thấy, mà hình tướng của Pháp thân hoàn toàn là do tu tập.

 Trong kinh Hoa Nghiêm có ghi: “ Pháp tánh vốn vắng lặng, không thể chấp thủ cũng không thể thấy, tánh không tức là cảnh Phật, không thể suy lường được”. Pháp thân xa lìa cảnh giới ngôn ngữ, văn tự và suy luờng, “nếu có người muốn biết cảnh giới Phật, tâm ý nên thanh tịnh như hư không”. Pháp thân là hư không thân, tuy không hình không tướng, không nói không thấy, nhưng vô hình mà không phải vô hình ,vô tướng mà không phải vô tướng. pháp thân biến khắp mười phương, bao trùm pháp giới.

  Có một lần Thượng toạ Thái Nguyên Phù giảng kinh Niết Bàn tại Dương Châu, giảng đến đoạn tam đức của Pháp thân, giảng rộng về đạo lý pháp thân. Lúc đó có vị thiền sư đang ngồi trong hội chúng nghe được liền cười. Thượng toạ Thái Nguyên Phù giảng kinh xong thì y áo chỉnh tề đãnh lễ vị thiền sư đó thưa: “đệ tử vừa giảng về Pháp thân, có chổ nào không đúng”? Thiền sư nói: “nếu ngài muốn giảng Pháp thân, xin ngài ngưng nói ba ngày, nhắm mắt suy nghĩ, pháp thân cuối cùng có hình tứơng như thế nào”?Thượng toạ nghe xong thì tuyên bố trong chúng hội ngưng giảng kinh Niết Bàn ba ngày,tự mình nhắm mắt tham cứu, ba ngày sau hình như đã có sở ngộ về Pháp thân, vui vẽ nói:

  Lý của pháp thân giống như hư không,

  Bao hết ba đời biến khắp muời phương

  Bao trùm bát cực bao quát lưỡng nghi

  Tuỳ duyên phú cảm không đâu mà không biến.

Từ công án này chúng ta có thể thấy Pháp thân không thể từ trên hình tướng mà hiểu cũng không thể dùng ngôn ngữ mà nói rõ được. Kim dung thánh tượng, hoặc nói hoặc nhìn thì có thể biết nhưng chỉ có pháp thân không thể lấy mắt tai để biết, chân thân vô tướng của Phật nên dùng tâm mà hiểu.

 Tác dụng của Pháp thân:Thể của pháp thân tuy không có hình để thấy có tướng để xem nhưng Dụng vi diệu đức tướng trang nghiêm của Pháp thân không phải hoàn toàn không thấy được. Đại luận nói: “ Thể pháp thân xét tận cùng không ngoài thân tướng hảo này; không lìa khỏi pháp thân tuy hai mà không khác”. Kim dung thánh thân của Phật không phải là pháp thân, nhưng kim dung thánh thân lại từ pháp thân mà hiện các tướng dụng

 Mật tích kinh nói: “Thánh thân Phật tuy có phân thành pháp thân, báo thân, ưng thân tuy có ba nhưng cũng không khác bởi vì ứng thân báo thân là từ pháp thân lý thể mà hiển hiện, lìa pháp thân sẽ không có báo thân và ứng thân. Cho nên từ kim dung của ứng thân cũng có thể biết được Pháp thân của Phật. Khi Phật ứng hoá ở thế gian đến khắp nơi thuyết pháp, trong mỗi pháp hội giảng kinh, có khi thấy thân Phật là sắc vàng, có thấy thân Phật sắc bạc thậm chí thấy thân Phật là màu sắc lưu ly sa cừ mã não, có lúc thấy Phật và người khác nhau, có lúc thấy Phật cao 6 thước cùng với chuyển luân vương không đồng, hoặc là ba thước trăm ngàn thước các loại thân không giống. Thậm chí âm thanh thuyết pháp của Phật cũng có các loại không đồng, có lúc âm thanh mềm mại vi diệu, có khi âm thanh vang dội như sư tử hống. Các thời pháp cũng tuỳ theo căn cơ của thính chúng mà nghe có khác có khi nghe bố thí trì giới,có khi nghe thiền định trí tuệ, giải thoát, đại thừa,…như thế sao có thể nói là kim dung hảo tướng bình thường được? Đó không phải là từ bản thể chân thân mà hiển hiện ra thần lực pháp thân bất khả tư nghì đó sao?

Từ trong các kinh điển chúng ta có thể thấy Gíao chủ Thích Ca, thường thường cùng trong một thời gian nhưng ở trong ngàn vạn quốc độ làm Phật sự có các danh hiệu các hình tướng và các cách giáo hoá khác nhau, đó không phải là tướng dụng của tất cả hiển hiện từ pháp thân đó sao? Nếu không có Pháp thân làm sao hiện các tướng dụng mà đến nơi này? Quốc độ của một Phật là tam thiên đại thiên thế giới, thế giới Ta bà chỉ là một thế giới nhỏ trong tam thiên đại thiên đó, Đức Phật ứng hiện ở thế gian, nếu không có pháp thân làm sao hiện tướng dụng đến khắp nơi và thế nào có thể giáo hoá được tam thiên quốc độ?

  Khởi Tín luận nói: “Pháp thân tự thể đã có ánh sáng trí huệ rộng lớn, chiếu khắp pháp giới. Do vậy có thể biết, tất cả thế giới Ta bà không có cái gì là không phải tướng dụng của Pháp thân, nên nói “ tiếng suối chảy là tướng lưỡi rộngdài, núi xanh biếc cũng là pháp thân thanh tịnh” “ hoa vàng rực rỡ là Bát nhã, trúc xanh mơm mởn cũng luôn là pháp thân”. Trong con mắt của bậc thánh giác ngộ không có một cái gì không phải là chân thân của Phật, khắp cả vũ trụ kông nơi nào mà không có chân thân của Phật. Phật Đà vì có thân hữu vi mà có nhập niết bàn, đó là khế hợp pháp tánh của Phật,chân thân của Phật biến vào trong tất cả pháp, không có một pháp nào mà không có chân thân Phật. Đức Phật cho đến ngày nay vẫn còn sống cùng chúng ta,chúng ta sống trong Pháp thân của Phật.Kinh Lăng Nghiêm nói: “mười phương hư không thế giới đều là trong tâm của Như Lai, như mặt trời giữa hư không, đều là chân thân của Phật ,vũ trụ vạn tượng đều là tướng dụng của chân thân Phật.

 Nơi nơi đều có Pháp thân: Pháp thân là chân thân của Phật, chân than này biến khắp muời phương hư không pháp giới, hào quang chiếu vô lượng quốc độ, chỉ có Bồ tát đầy đủ Thập trụ Mới có thể thường nghe được diễn thuyết diệu pháp của Pháp thân. Pháp thân lá cảnh giới của Phật, Kinh Lăng Nghiêm chép: “Nước trong đại dương co thể uống hết, bụi trong vũ trụ có thể đếm được,gió trong hư không có thể cột lại nhưng cảnh giới của Phật thì không thể nói được”.

Đức Phật trong các kinh điển luôn luôn chỉ đạo các đệ tử tu tập nên nhận thức về chân thân của Phật rất thân thiết. Đức Phật cũng dạy: “ thấy duyên khởi tức thấy pháp, thấy pháp tức thấy Phật”, pháp thân của Phật tức tự tánh của các pháp, nếu có khả năng từ pháp duyên khởi, hiểu thông tánh không của các pháp và như thế là có thể thấy đựơc chân thân của Phật. Kinh Kim Cang cũng viết: “Chổ nào có kinh điển thì chổ đó có Phật”. Trong pháp có phật, tin pháp là tin Phật, gọi là phật bởi vì Ngài có thể khế hợp pháp tánh, chứng ngộ pháp tánh và cùng pháp tánh hoà thành một thể; không tin pháp, không kính pháp,không hiểu pháp thì không thể nhận thức được chân than của Phật.

Đức Phật ứng hoá thân vì nhân duyên, nhân duyên hết rồi thì nhập niết bàn, hàng đệ tử nhìn cảnh Phật niết bàn rất đổi bi thương, Phật liền dạy: “các ngươi chớ có bi thương, ứng thân hữu vi tuổi già này cũng như chiếc xe cũ mục, chiếc xe cũ mục lúc hư, nếu đem sữa lại sử dụng đó không là phương pháp tốt nhất, nếu cái sanh mệnh nhục thể hữu vi của ta sống ngàn vạn năm cùng các ngươi nhưng có hợp tất có biệt ly, đó là đạo lý không thay đổi được! Đức phật vào niết bàn ở trong pháp tánh chiếu cố đến các ngươi làm cho sanh mệnh của Phật tương ưng với pháp thân vô vi, sanh mệnh này song hành cùng trời đất, chiếu sáng như mặt trời mặt trăng, các ngươi sau này nên y theo giáo pháp của Ta mà hành, màu lục của dương liễu đó ,màu xanh của tùng bách đó đều là pháp thân của Phật”nếu có thể y theo giáo pháp của Phật mà hành thì thấy được chân thân của Phật.

Do đó, các pháp tam vô lậu học giới định huệ là chân thân của Phật, 37 phẩm trợ đạo, thập lực, tứ vô uý,…là chân thân của Phật. Thậm chí hành một số pháp vì tăng đoàn đều là chân thân của Phật.

Chân thân thường trụ:Chân thân của Phật, pháp thân hụê mệnh của Phật là sáu pháp lục hoà của Tăng đoàn. Đức Phật thường nói: “ nếu cúng dường tăng tức là cúng dường Ta rồi” Phật sao mà xem trọng chúng tăng đến thế, cho nên “tiếp nối long mạch Phật pháp”, “kế tục hụê mệnh của Phật”, đều nương vào tăng đoàn, hy vọng tăng đoàn sau này không nên nghĩ rằng Phật đã vào niết bàn rồi, nên biết sức từ bi của Phật luôn gia trì chúng ta, chúng ta nên đi về mọi nơi để hoằng Pháp lợi sanh, làm cho chân thân Phật biến khắp nơi trên thế giới.

  Hoàng đế Thuận Tông đời Đường không biết chân thân Phật cuối cùng sẽ ở đâu, nên đến Phật Quang Như Mãn thiền sư thỉnh vấn như sau:

   “Phật từ xứ nào đến

Diệt rồi đi về đâu

Đã nói thường trụ thế

Hiện tại Phật ở đâu”?

Thiền sư đáp:

“Phật từ vô vi đến

Diệt trở về vô vi

Pháp thân đầy hư không

Thường trụ vô tâm xứ

hữu niệm quy vô niệm

Hữu trụ quy vô trụ

Đến vì chúng sanh đến

Đi vì chúng sanh đi

Biển thanh tịnh chân như

Thể thường trụ sâu xa

Trí giả khéo suy nghĩ

Chớ có nên hoài nghi”.

Hoàng đế trả lời thiền sư và vẫn còn hoài nghi

“Phật tại hoàng cung sanh

Diệt tại rừng song thọ

Trụ thế bốn chín năm

Lại nói không thuyết pháp

Sơn hà và đại hải

Trời đất và nhật nguyệt

Đến thời quy về hết

Ai nói không sanh diệt

Nghi tình như ở đây

Trí giả khéo phân biệt”.

Thiền sư lại trả lời:

“Phật thể vốn vô vi

Mê tình vọng phân biệt

Pháp thân khắp hư không

Chưa từng có sanh diệt

Hữu duyên Phật ra đời

Hết duyên Phật nhập diệt

Xứ xứ hoá chúng sanh

Giống như trăng dưới nuớc

Không thường cũng không đoạn

Không sanh cũng không diệt

Sanh cũng chưa từng sanh

Diệt cũng chưa từng diệt

Thấy rõ vô tâm xứ

Tự nhiên không pháp thuyết”.

Les commentaires sont fermés.