Tôn giả TU BỒ ĐỀ

Tôn giả TU BỒ ĐỀ
(Subhuti)
(Thể nhập diệu lí “KHÔNG” hơn ai hết)

1.- ĐIỀM ĐẠI CÁT CỦA BÉ KHÔNG SINH:

Trong kho tàng giáo lí của đức Phật, những phát biểu về vũ trụ nhân sinh đã chiếm một địa vị đáng kể, trong đó, có thể nói rằng, giáo lí Bát Nhã là quan trọng nhất. “Bát Nhã” là gì? Ta có thể giải thích một cách giản dị và đúng đắn nhất, đó là tuệ giác về tính KHÔNG.

Không? Đó là một đạo lí huyền diệu, khó hiểu, nói có đã không đúng mà nói không cũng không phải, vi nó thoát ra ngoài cặp ý niệm đối đãi có và không; không thể dùng ngôn ngữ để diễn đạt, mà cũng không thể dùng trí suy nghĩ để hiểu được. Tăng đoàn của đức Phật có đến 1250 vị tì kheo chứng quả A La Hán, nhưng có thể nói, người hiểu thông suốt diệu lí không hơn hết và thể chứng được diệu lí ấy, là tôn giả Tu Bồ Đề.

Nói tới Tu Bồ Đề, chúng ta cũng nên biết đén cái điềm lành trong lúc tôn giả vừa được sinh ra đời, để thấy rằng tôn giả vốn đã có cái cốt cách phi phàm từ lúc sơ sinh. (Tu Bồ Đề quê ở thành Vương Xá, nước Ma Kiệt Đà, vốn là cháu gọi trưởng giả Tu Đạt [Sudatta] bằng bác ruột. Tu Đạt là người thành Xá Vệ [Sravasti – Savatthi], đã xây tu viện Kì Viên [Jetavana] để cúng dường Phật và giáo đoàn dùng làm cơ sở tu học và hành đạo đầu tiên ở nước Kiều Tát La [Kosala]. Nhưng cũng có thuyết nói rằng, tôn giả Tu Bồ Đề sinh tại thành Xá Vệ, là em trai của trưởng giả Cấp Cô Độc [Anathapindada – Anathapindika]. – Chú thích của người dịch).

Nguyên lai, ngày mà tôn giả vừa được sinh ra, bỗng nhiên bao nhiêu của cải, vật dụng trong nhà đều biến mất. Mọi người rất lo lắng, tức tốc cho mời thầy tướng số về để xem sự thể tốt xấu ra sao. Xem quẻ xong, thầy nói: “Đây là việc rất đáng mừng. Trong nhà quí vị vừa sinh được quí tử. Lúc vị quí tử này mới được sinh ra mà tất cả vàng bạc châu báu đều trở thành không, đó là điềm đại cát, trong tương lai chắc chắn cậu ấy sẽ không bị danh lợi của thế gian trói buộc. Vậy chúng ta có thể đặt tên cho cậu bé là Không Sinh, hoặc Thiện Cát”.

Mọi người trong nhà nghe vậy mới yên lòng. Ba ngày sau, bỗng dưng mọi của cải, vật dụng trong nhà đều hiện lại nguyên trạng như cũ. Từ đó, tên của tôn giả, có người gọi là Không Sinh, có người gọi là Thiện Cát. Cái điềm lạ này thật là cổ kim hi hữu.

2.- NHÀ TIỂU TỪ THIỆN:

Khi còn niên thiếu, chưa qui y với đức Phật, cậu bé Tu Bồ Đề đã có cách nhìn đời cũng như các đối xử với người thật là khác biệt, không giống như mọi người. Tuy sinh trưởng trong một gia đình giàu có, được cha mẹ nuông chìu cưng quí, nhưng cậu không để cho mình trở thành một kẻ nô lệ cho vàng bạc của cải. Bao nhiêu tiền bạc do cha mẹ cho, cậu đều tìm dịp để giúp đỡ cho những kẻ nghèo khó. Có lúc giữa đường thấy người ăn xin, áo không đủ che thân, cậu liền cởi ngay áo ngoài của mình tặng cho, còn cậu thì chỉ mặc áo lót quần cụt trở về nhà. Cha mẹ cậu tuy không phải là hạng người keo kiệt, nhưng thấy tác phong của con mình như vậy thì không bằng lòng, đã có lúc gọi cậu lại để trách mắng:

– Không Sinh! Con đã có những hành động không đúng! Tiền bạc của mình cứ đem cho người mà không cần cân nhắc; y phục đang mặc cũng cởi ra cho người, rồi để thân trần như vậy đi ngoài đường làm sao mà coi cho được!

Tu Bồ Đề cung kính thưa:

– Thưa cha mẹ! Chẳng biết vì nguyên nhân gì con cảm thấy từ thâm tâm rằng, tất cả những gì trên thế gian đối với con đều có mối quan hệ mật thiết, tất cả mọi người cùng với con như có đồng một thân thể. Người ta và con đâu có gì khác nhau, cho nên đem những gì của mình để cho người ta cũng đâu có gì là không đúng.

Nghe Tu Bồ Đề nói thế, cha mẹ cậu lại càng bực mình:

– Thằng này thật là kì cục! Có tiền mà không biết xài, có áo mà không biết mặc, lại còn nói ngông, chẳng sợ người ta cười cho. Từ nay về sau, nếu không sửa đổi thì sẽ nhốt trong nhà, không được ra khỏi cửa!

Nhưng Tu Bồ Đề đã không thể sửa đổi được cái “thiên tính” ấy được, vẫn tiếp tục bố thí, cho nên bị cha mẹ nhốt luôn trong nhà, không cho đi đây đi đó nữa.

Nhưng sự việc đó lại trở thành vận may cho cậu, vì nhờ dịp này cậu có thì giờ đọc và nghiền ngẫm tất cả những sách vở về triết học và tôn giáo hiện hành trên toàn lãnh thổ Ấn Độ; do vậy, cậu đã có một kiến thức thật rộng rãi về các vấn đề nhân sinh. Cậu thường lấy làm tự hào thưa với cha mẹ:

– Vạn tượng dầy đặc trong trong vũ trụ như đều hiện rõ trong tâm con, nhưng trong tâm con lại dường như trống rỗng, không hề có vật gì cả. Nếu trên thế gian này không có một bậc thánh đại trí đại giác thì ai cũng không đủ tư cách để cùng với con thảo luận về tâm cảnh của người giải thoát; ai cũng không thể thấy rõ được cái thế giới ở trong tâm con.

Tu Bồ Đề trẻ tuổi mà đã có những lời nói sâu xa! Cha mẹ cậu nghe thế lại nghĩ đến sự kì lạ ngày nào lúc cậu mới ra đời. Miệng của kẻ bất phàm không khỏi phải nói ra những lời bất phàm. Cha mẹ lấy làm sửng sốt, lạ lùng cho người con cưng quí của mình.

3.- QUAY VỀ NƯƠNG TỰA PHẬT:

Lần nọ, đức Phật đến giáo hóa tại thôn xóm của Tu Bồ Đề. Người làng loan truyền cho nhau biết rằng đức Phật là bậc Nhất Thiết Trí, nói về trí tuệ thì trên thế gian này không ai có thể so sánh được.

Những lời bình luận trên rồi cũng đến tai Tu Bồ Đề; vả lại, chính cha mẹ chàng cũng theo người làng, cùng đến qui y với đức Phật.

Truyền thống tín ngưỡng của gia đình Tu Bồ Đề là Bà la môn giáo, nhưng bây giờ, tại sao cha mẹ lại theo người làng mà thay đổi tín ngưỡng một cách dễ dàng như vậy? Đến lượt Tu Bồ Đề lại lấy làm lạ lùng về cha mẹ mình.

Một hôm, phụ thân gọi Tu Bồ Đề bảo:

– Không Sinh! Con thường tự cho mình có trí tuệ, hiểu rõ được chân lí đời người, nhưng theo cha thì đối với đức Phật, con vẫn còn thua rất xa. Đức Phật không những là bậc đại trí tuệ mà còn là bậc đại từ bi, lại là bậc đại thần thông nữa. Từ hôm đức Phật đến địa phương ta giáo hóa, hầu hết người làng đều qui y theo Người. Cha định nay mai sẽ thỉnh Phật về nhà ta để cúng dường. Cha hi vọng rằng, lúc đó, ở trước mặt Người, tâm cuồng vọng của con sẽ tiêu mất.

Tu Bồ Đề vẫn tỏ vẻ không phục:

– Đức Phật trong con mắt của phụ thân là bậc nhất thiết trí, nhưng trong mắt của con thì ông ta cũng chỉ là người bình thường mà thôi.

Tuy ngoài miệng nói thế, nhưng trong thâm tâm, Tu Bồ Đề vẫn cảm thấy có điều gì thắc mắc, hơn nữa, cái “điều gì” đó còn làm cho chàng chấn động mạnh. Thật ra thì Phật là người như thế nào? Tu Bồ Đề tĩnh tọa, và khi tâm ý đã tĩnh lặng thì những bọt sóng lại cuồn cuộn nổi dậy trong lòng. Chàng suy nghĩ, nếu chờ đến khi đức Phật đến nhà thọ trai mới tương kiến, giả như lúc đó vì quá bận rộn mà Người không đến được thì sao! Cho nên, không thể chờ đợi được, ngay đêm hôm đó, chàng quyết định lén cha mẹ đến nơi Phật ngự để dò xét xem Người là người thế nào.

Đêm hôm đó trời trong gió mát, trăng thượng huyền treo tỏ rỏ trên không trung, muôn vì sao nhấp nhánh như có ý chế riễu chàng trai hiếu kì Tu Bồ Đề. Chàng một mình tìm đến chỗ Phật đang thuyết pháp. Lúc đó Ngài đang ngồi trên pháp tòa cao, bốn phía đèn đuốc sáng trưng. Hàng ngàn dân làng đang ngồi chung quanh pháp tòa, Chàng nhìn đức Phật. Ôi! Đó có phải là một người bình thường ở thế gian không? Tướng mạo của Người sao mà viên mãn quá! Trang nghiêm quá! Chói sáng quá! Thật là ngoài sức tưởng tượng của chàng! Người đông thế mà yên lặng vô cùng, hình như chẳng có ai dám thở mạnh, chỉ có pháp âm của Phật là nghe rõ mồn một mà thôi. Chàng nghe Phật dạy:

– Mọi người chúng ta đều chung cùng một bản thân. Bản thể ấy không phân biệt nhân và ngã. Tất cả vạn vật đều do nhân duyên hòa hợp mà sinh ra. Không có một vật gì có thể tự nó tồn tại độc lập được. Ta và vạn pháp đã nương nhau mà tồn tại thì việc đem lòng từ bi và những ân huệ để bố thí cho chúng sinh, mới xem ra thì có vẻ như là vì người, mà thật ra thì chính ta cũng có được ích lợi lớn lao …

Pháp âm của đức Phật vô cùng từ hòa, êm dịu và những lời dạy của đức Phật vừa rồi càng làm cho Tu Bồ Đề cảm động. Từ trong đại chúng, chàng len lén chắp tay hướng lên đức Phật, tỏ lòng cung kính.

Sau buổi pháp thoại, đức Phật trở về tịnh thất được dọn sẵn để nghỉ ngơi. Tu Bồ Đề lén theo sau, muốn hội kiến với Phật mà không đủ can đảm, cứ đứng thập thò ở cửa tịnh thất.

Như thấu được tâm ý của Tu Bồ Đề, đức Phật lên tiếng:

– Vị nào đó? Xin mời vào phòng để chúng ta cùng nói chuyện.

– Bạch Thế Tôn! Dạ con đây! Con là Tu Bồ Đề, xin Thế Tôn thâu nhận cho con được xuất gia làm đệ tử của Người.

– Thế à! Thì ra Tu Bồ Đề là ngươi. Ta nghe nói ngươi là một thanh niên thông tuệ nhất trong địa phương này. Tốt lắm, người thông tuệ thì mới có thể tin nhận và hành trì giáo pháp một cách chân chính. Vậy việc này song thân ngươi đã biết chưa?

– Bạch Thế Tôn! Con nghĩ rằng khi song thân con biết việc này thì sẽ vô cùng hoan hỉ. Con rất vinh hạnh được thờ Thế Tôn làm thầy.

Đức Phật hoan hỉ chấp nhận. Từ đó Tu Bồ Đề mặc áo cà sa và trở thành một đệ tử kiệt xuất trong tăng đoàn của đức Phật.

4.- XIN ĂN NHÀ GIÀU, KHÔNG XIN ĂN NHÀ NGHÈO:

Sau khi xuất gia với ba y và một bình bát, mỗi ngày, buổi sáng Tu Bồ Đề vào phố khất thực, buổi chiều thì theo Phật nghe pháp, tham thiền.

Về việc khất thực, tăng chúng đều tuân theo pháp chế thứ đệ hành khất của Phật mà thi hành. Quí vị tì kheo, vị này tiếp nối vị kia, đi thành hàng một, hết nhà này đến nhà khác, dù thí chủ có cúng dưòng hay không cũng đều phải tuần tự đi qua, không được chọn lựa, bỏ sót. Nhưng riêng Tu Bồ Đề thì ngày bắt đầu vào nếp sinh hoạt khất thực đã không thi hành pháp chế ấy giống như đại chúng. Mỗi sáng khi ra khỏi tu viện, Tu Bồ Đề liền rẽ ra một lối khác, nhắm đối tượng đã được chọn trước để đi đến thẳng đó mà khất thực. Lúc đầu đại chúng không ai để ý, nhưng về sau họ đã phát giác được hành động khác lạ ấy của Tu Bồ Đề. Lúc ấy đại chúng mới biết được rằng, Tu Bồ Đề đi khất thực, chỉ chọn những nhà giàu có mà tới, nếu thấy nhà nào nhỏ hẹp, hoặc biết rằng trong gia đình ấy kinh tế cùng quẫn thi nhất định không dừng lại. Dù có phải đi thật xa để đến một nhà giàu xin ăn, tôn giả cũng vẫn đi, bằng không, thà hôm đó chịu nhịn đói chứ không đế xin ăn ở nhà nghèo.

Một hôm, trên đường phố Tì Xá Li (Vaisali – Vesali), một vị tì kheo đã cười mỉa hỏi Tu Bồ Đề:

– Kẻ nghèo dù có ở trước mặt cũng không ai thèm hỏi tới, người giàu dù ở sâu trong rừng núi cũng có kẻ đến làm thân. Ở thành Tì Xá Li này toàn là nhà giàu có, chẳng hay hôm nay đại đức đã tìm ra được nhà nào chưa?

Tu Bồ Đề đáp:

– Thưa đại đức! Không phải tôi không để ý đến người nghèo, trái lại còn có thể nói tôi luôn luôn đứng về phía những người nghèo. Sở dĩ tôi chỉ đến xin ăn ở những nhà giàu mà không đến những nhà nghèo, thực sự là vì tôi có tâm nguyện riêng, xin đại đức hiểu cho.

Đại đức chỉ muốn tới cửa nhà giàu mà không thèm đến nhà nghèo là vi đại đức muốn ngày nào cũng được ăn uống sung sướng, đầy đủ bổ dưỡng, hèn chi thân thể của đại đức trông tráng kiện, mập mạp như thế kia!

– Thưa đại đức! Xin đừng nói như vậy! Tôi đến nhà giàu khất thực không phải là vì để được ăn những món ngon vật lạ. Nếu cần ăn uống sung sướng thì tôi đâu cần phải xuất gia học đạo. Nhưng vì sao tôi không đến khất thực ở những nhà nghèo? Tại vì người nghèo khổ tự nuôi lấy gia đình họ đã khó khăn, vất vả rồi, làm sao có dư để cúng dường cho chúng ta! Dù họ có muốn muốn tự ý phát tâm thì họ cũng chỉ có lòng mà sức thì không đủ. Chúng ta đã không có lương thực để giúp đỡ họ thì thôi, lại còn bắt họ phải chịu thêm gánh nặng hay sao! Trong khi đó, đối với những người giàu có, một bữa cơm cúng dường cho ta đâu có đáng kể gì. Bởi vậy mà tôi tâm nguyện rằng chỉ đến khất thực ở nhà giàu mà không đến người nghèo.

Nghe Tu Bồ Đề nói rõ tâm nguyện, vị tì kheo kia không còn biết phải nói năng làm sao nữa.

Trong tăng đoàn, người có tác phong tương phản với Tu Bồ Đề là tôn giả Đại Ca Diếp (Mahakapasya – Mahakassapa). Trong khi Tu Bồ Đề chỉ xin ăn nhà giàu, không xin ăn nhà nghèo, thì Đại Ca Diếp lại chỉ xin ăn nhà nghèo mà không xin ăn nhà giàu. Tu Bồ Đề không hiểu được tâm ý của Đại Ca Diếp ra sao, cho nên một hôm nhân lúc nhàn đàm, tôn giả đã hỏi Đại Ca Diếp:

– Thưa sư huynh! Quan niệm khất thực của sư huynh là trái ngược với tôi. Vậy tôi xin vô lễ được hỏi nguyên nhân tại sao.

Đại Ca Diếp giải thích:

– Chúng ta xuất gia làm sa môn, giữ đạo và hành trì giáo pháp, đó là ruộng phước cho người đời. Chúng ta thọ nhận sự cúng dường của thí chủ là tạo cơ hội cho họ làm tăng trưởng phước huệ. Sở dĩ tôi chỉ đến khất thực ở những nhà nghèo là vì tôi muốn cho họ gieo trồng phước đức, nhờ đó mà họ sẽ thoát được cảnh nghèo khổ trong kiếp vị lai; còn người giàu vốn dĩ họ đã có nhiều phước báo, vậy hà tất chúng ta phải thêm hoa cho gấm!

Lời giải thích của tôn giả Đại Ca Diếp vừa có vẻ như biện bạch chính mình mà cũng vừa có vẻ như muốn thuyết phục Tu Bồ Đề. Nghe xong, Tu Bồ Đề gật đầu đồng ý, và vì không muốn người khác phải theo quan niệm của mình, tôn giả nói:

– Xin ăn nhà giàu hay nhà nghèo cũng đều vi lợi ích cho chúng sinh. Thưa sư huynh! Trong Phật pháp có nhiều cánh cửa phương tiện, chúng ta mỗi người có thể hành trì theo hạnh nguyện riêng của mình, vì chung qui cũng đều là giáo pháp của Phật.

Thái độ khất thực cũng như những lời đối đáp giữa hai tôn giả Tu Bồ Đề và Đại Ca Diếp đã trở thành hai mũi nhọn đối chọi nhau. Đức Phật biết được việc này và không đồng ý với cả hai vị. Phật quở trách cả hai vị là đã khất thực không đúng với giáo chế. Khất thực đúng phép phải là thứ đệ hành khất, không được lựa chọn giàu nghèo, không phân biệt dơ sạch, và oai nghi lúc nào cũng phải nghiêm túc.

5.- KHÓC TRONG PHÁP HỘI BÁT NHÃ:

Tôn giả Tu Bồ Đề rất tinh tấn trong việc nghe pháp và tu tập. Bởi thế, trong 16 pháp hội Bát Nhã của đức Phật, trừ khi phải giáo hóa ở các nơi xa xôi, còn thì tôn giả không bỏ sót một pháp hội nào.

Một lần nọ, tại tu viện Kì Viên, đức Phật dự định nói kinh Kim Cang Bát Nhã. Tất cả chúng đệ tử, sau khi vào thành khất thực trở về, đều lần lượt ngồi xuống chung quanh đức Phật.

Lúc ấy Phật đang tĩnh tọa, mọi người cũng ngồi yên lặng, chưa ai dám lên tiếng hỏi điều gì. Bấy giờ, tôn giả Tu Bồ Đề, hiểu rõ được tâm ý của Phật, liền đứng dậy, trật vai áo bên phải, lạy Phật và thưa rằng:

– Bạch Thế Tôn! Tất cả chúng con đều biết rằng Thế Tôn rất khéo léo ái hộ chúng con, nhưng đối với các thiện nam tín nữ khi phát tâm bồ đề thì làm thế nào mới có thể an trú được? Và khi họ bị các vọng niệm quấy phá thì làm thế nào mới có thể hàng phục được? Xin Thế Tôn từ bi dạy bảo chúng con!

Đức Phật rất hoan hỉ đối với vấn đề tôn giả vừa nêu ra. Ngài dạy:

– Làm thế nào để an trú ở tâm bồ đề và không bị vọng niệm quấy phá ư? Này Tu Bồ Đề! Chính là trong khi bố thí, nên thực hành hạnh bố thí vô tướng; trong khi độ sinh, nên thực hành cách độ sinh vô ngã. Cứ theo cách thức ấy mà an trú, cứ theo cách thức ấy mà hàng phục vọng tâm.

Vô tướng bố thí, vô ngã độ sinh! Tu Bồ Đề chợt hiểu rõ một cách sâu sắc lời Phật vừa dạy. Tôn giả vô cùng cảm kích pháp âm của Phật. Vui mừng đến độ chảy nước mắt, tôn giả quì xuống trước Phật, thưa rằng:

– Bạch Thế Tôn! Từ ngày con được làm người cho tới nay, đây là lần thứ nhất con được nghe giáo pháp cao sâu nhiệm mầu như vậy. Từ nay trở đi hai thứ chấp trước ngã và pháp đều không còn quấn chặt được con nữa. Tất cả bốn tướng trạng là ta, người, chúng sinh và sinh mạng cũng không thể trói buộc được con nữa. Phải xa lìa được mọi vọng tướng chấp trước mới có thể thấy được tính không. Phải trừ khử mọi ý niệm về danh, tướng mới có thể thấy được thực tại nhân sinh. Hôm nay con đã thể nhập được tâm ý của Phật, con đã thấy rõ được chính mình.

Sau lần khai ngộ này, tôn giả Tu Bồ Đề đã trở thành người đệ tử của đức Phật đứng đầu tăng đoàn về hiểu rõ tính không.

6.- NGHE VIỆC XƯA MÀ TĂNG TRƯỞNG LÒNG TIN:

Tuy đức Phật biết rõ Tu Bồ Đề đã dứt trừ được vọng tâm chấp trước nhân ngã, nhưng đối với lòng từ bi vô biên, vì muốn tăng thêm sức mạnh cho lòng tin tưởng của Tu Bồ Đề về vô tướng bố thí và vô ngã độ sinh, Ngài đã thuật lại câu chuyện “tiền thân” như sau:

“Này Tu Bồ Đề! Trong kiếp quá khứ, có lần ta là một người tu hành ở trong chốn rừng núi. Lúc đó ta đang tĩnh tọa dưới một cây đại thọ, nhắm mắt để quán chiếu về những huyền bí của vũ trụ và về khởi nguồn của nhân sinh. Bỗng nhiên ta nghe có tiếng cười dòn nổi lên ở phía trước. Ta mở mắt ra nhìn, thì ra là một đoàn thiếu phụ sắc nước hương trời đang đứng trước mặt. Nhìn cách phục sức và trang điểm sang trọng của họ người ta sẽ biết ngay rằng, nếu họ không phải là tiên nữ từ thượng giới hạ giáng thì cũng phải là các phi tần trong chốn hoàng cung. Họ nắm tay nhau, cùng tiến tới trước mặt ta, vừa cười cợt hỏi:

– Ông thầy tu ơi! Đây là chốn núi sâu rừng rậm, tại sao ông ngồi một mình vậy! Ông không sợ cọp, beo chó sói ăn thịt sao?

Ta vẫn ngồi ngay thẳng trả lời:

– Thưa quí vị nữ sĩ tôn quí! Đúng vậy. Tôi ở đây tu hành chỉ có một mình, vì người tu hành không nhất thiết phải có nhiều bạn bè. Hơn nữa, người có tâm từ bi thì sẽ không bị thú dữ làm hại, còn ở tại chốn thành đô hoa lệ thì những thứ như tiền bạc, sắc đẹp và quyền uy, có khác gì cọp, beo, chó sói ở nơi rừng núi đâu!

Nghe ta nói xong mấy lời này thì đám thiếu phụ kia bỗng thay đổi thái độ, không còn có vẻ kiêu kì nữa mà lại tỏ ra cung kính đối với ta. Họ ân cần xin ta chỉ dạy. Ta bèn ngắt một đóa hoa hồng nhỏ ở bên cạnh, nói tiếp:

– Thưa quí vị! Người đời ai cũng mong tìm hạnh phúc, nhưng hạnh phúc cũng có thứ chân thật, thứ giả dối, thứ trường cửu, thứ tạm thời. Phần đông người ta đều bị mê hoặc, bị lôi cuốn bởi thứ hạnh phục giả tạm, giống như đoá hồng nhỏ này, vừa nở ra trông rất đẹp, nhưng cái đẹp ấy không tồn tại vĩnh viễn. Tuổi trẻ, sắc đẹp, sự cường tráng và khỏe mạnh không đủ cho chúng ta ỷ lại.

Đời người đáng quí ở chỗ biết sống đúng đạo lí, làm cho đời sống luôn luôn tiến triển và thăng hoa; đó là việc nên theo đuổi.

Ta vừa nói đến đây thì một người ăn mặc theo lối vương giả, tay cầm bảo kiếm từ xa chạy tới trước mặt ta quát lớn:

– Ngươi là ai, sao dám cả gan đùa giỡn với cung phi của ta?

Ta thấy người ấy chạy đến với thái độ cực kì hung hãn. Ta từ tốn nói:

– Thưa đại vương! Xin ngài cho biết quí danh và xin ngài đừng nên nhục mạ người như vậy.

Nhưng người ấy càng to tiếng hơn:

– Ngươi nằm mộng giữa ban ngày chăng? Ta là vua Ca Lị, oai danh chấn động bốn phương, ai mà không biết! Không ngờ ngươi dám dụ dỗ cung phi của ta!

– Thưa đại vương! Xin ngài đừng nói như vậy. Tôi là kẻ tu hành, giữ hạnh nhẫn nhục, cho nên không dám có lời chống đối ngài, nhưng khẩu nghiệp ngài vừa tạo ra chắc chắn sẽ đem lại cho ngài một tương lai không tốt đẹp.

– Ngươi tu hạnh nhẫn nhục ư? Vậy ta thử cắt thân thể ngươi ra từng mảnh, xem ngươi có nhẫn nhục được hay không!

Này Tu Bồ Đề! Vua Ca Lị nói như thế xong liền dùng bảo kiếm lần lượt móc mắt, cắt tai, cắt mũi, chặt hai tay rồi hai chân ta; nhưng vì hạnh nguyện độ sinh, vì ban bố lòng từ bi cho chúng sinh mà ta không hề khởi lên một niệm sân hận. Với tinh thần vô ngã độ sinh, ta dần dần tích tụ phước huệ để trang nghiêm cho quả vị giác ngộ. Này Tu Bồ Đề! Sự hung bạo không thể thắng được người, chỉ có người tu hạnh nhẫn nhục mới đạt được thắng lợi cuối cùng mà thôi”.

Tôn giả Tu Bồ Đề vô cùng cảm động khi nghe xong mẫu chuyện tiền thân về một kiếp tu hành của đức Phật, và nhờ câu chuyện đó mà tôn giả càng thể hội sâu xa chân lí vô ngã, thực chứng được tuệ giác về tính không cao sâu mầu nhiệm.

7.- “KHÔNG” LÀ GÌ?

Do sự giảng dạy của đức Đại Giác Thế Tôn, Tu Bồ Đề hiểu rằng, tất cả mọi loài, mọi vật trong vũ trụ đều do nhân duyên mà sinh thành và cũng do nhân duyên mà hoại diệt. Duyên sinh là lời giải thích rõ ràng nhất của chữ “không”. Do đó, chữ “không” ở đây không phải là không có gì cả, không phải sự trống vắng của sự vật; nó không rời khỏi mối liên hệ nhân quả của sự vật, không phá hoại mối nhân duyên sinh thành vạn pháp; nó mang đầy tính cách mạng và tính tích cực.

Không là giáo lí trung tâm của Phật pháp; nó tượng trưng cho tinh thần của đạo Phật. Nếu không phải là đệ tử của Phật thì không thể lĩnh hội được giáo nghĩa không; ngay như là đệ tử Phật, cũng có lắm người không thể nhập được giáo lí mầu nhiệm này. Bởi vậy tôn giả Tu Bồ Đề thường than rằng: “Người liễu ngộ được tính không sao mà ít oi quá!”

Một lần nọ, một người trí thức Bà la môn hỏi tôn giả Tu Bồ Đề:

– Thưa đại đức! Tôi nghe nói đại đức là người đệ tử của đức Phật hiểu rõ nhất vè tính không. Vậy tôi xin đại đức giải thích cho thắc mắc của tôi. Thật sự là tất cả vạn vật trên thế gian đang tồn tại rõ ràng trước mắt, mà tại sao đại đức bảo chúng đều là không?

Tu Bồ Đề liền chỉ ngay một ngôi nhà trước mặt, nói:

– Xin ông hãy nhìn ngôi nhà kia! Nó là do bốn yếu tố (đất, nước, gió, lửa) và các thứ nhân duyên khác hợp lại mà có. Nếu lấy riêng từng thứ vật liệu như gỗ, đất, gạch, ngói v.v… từ ngôi nhà ấy ra, thì chẳng những ngôi nhà đã không có, mà ngay cả tên gọi “ngôi nhà” cũng không có. Vì ngôi nhà ấy do tất cả những thứ không phải là nhà hợp lại mà có, cho nên chúng ta bảo ngôi nhà ấy là không. Không, không có nghĩa là phủ nhận không có căn nhà; nó không mang nội dung của cặp ý niệm đối đãi có-không. Không là không có một bản ngã, một thực thể riêng biệt, độc lập. Và chính vì vậy, không là bản thể của tất cả sự vật trên thế gian.

Người trí thức Bà la môn nghe xong, trầm ngâm giây lát, rồi chắp tay đối trước Tu Bồ Đề nói:

– Đại đức quả không hổ là người đệ tử của đức Phật hiểu rõ nhất về tính không. Lời chỉ dạy của đại đức làm cho tôi rất kính phục. Tôi tự lấy làm xấu hổ không đủ tư cách để biện luận với đại đức. Xin chào đại đức và mong được gặp lại.

Trong thế đứng trang nghiêm. Tu Bồ Đề đưa tay vẽ một vòng trên không, nói với người Bà la môn:

– Trong khi tóc của ông từ màu đen chuyển đổi thành trắng bạc, trong khi chiếc lá ở đầu cành cây kia rụng xuống đất, vẫn có hạt giống của bông hoa kia rơi và bị chôn vào lòng đất, rồi nảy mầm, lớn lên, nở hoa, kết trái … trải qua một thời kì biến chuyển tuần hoàn, lại trở thành nguyên dạng của nó. Ông hãy ghi nhớ lấy: đó là không đấy.

Nói xong, hai vị chia tay từ giã.

8.- NGƯỜI NGHINH TIẾP PHẬT TRƯỚC NHẤT:

Tôn giả Tu Bồ Đề đã thể chứng diệu lí không, rất khéo tuyên dương diệu lí không, và có thể nói, tất cả những hành vi đi đứng nằm ngồi cũng đều biểu hiện diệu lí không.

Một hôm, bỗng dưng mọi người đều phát giác sự vắng mặt của đức Phật tại núi Linh Thứu (Grdhrakuta – Gijjhakuta). Đại chúng chia nhau đi mọi nơi tìm kiếm nhưng đều không thấy. Bấy giờ tôn giả A Na Luật (Aniruddha – Anuruddha) bèn dùng thiên nhãn quán sát, mới biết rằng đức Phật đang ngự tại cung trời Đao Lợi (Trayastrimsa – Tavatimsa) để nói pháp độ cho mẫu hậu là lệnh bà Ma Da (Mahamaya); cũng phải ba tháng sau Ngài mới trở về. A Na Luật báo cho đại chúng biết như vậy. Mọi người ai cũng trông nhớ.

Ba tháng trôi qua thật nhanh, đã tới ngày đức Phật trở về. Khi biết được Phật sắp trở về, ai cũng tranh nhau xuống núi trước để được coi là người nghinh đón đức Phật trước nhất. Lúc bấy giờ tôn giả Tu Bồ Đề đang ngồi vá áo trong động Kì Xà (Grdhrakuta – Gijjhakuta). Khi nghe được tin này, liền buông kim chỉ đứng dậy, định cùng mọi người đi nghinh đón Phật, nhưng rồi một ý nghĩ dấy lên trong tâm tư, tôn giả liền ngồi xuống lại như cũ, lòng thầm nhũ: “Ta đi nghinh đón đức Phật để làm gì? Chân thân của Phật không thể nhìn thấy được ở mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý của Phật. Nếu bây giờ ta đi nghinh đón Phật có nghĩa là ta lấy cái thân tứ đại giả hợp kia làm pháp thân Phật; và như thế tức là ta đã không biết gì về tính không của các pháp. Nếu không viết gì về tính không của các pháp thì không thể nhìn thấy pháp thân của Phật, Tính không của các pháp hay pháp thân của Phật không phải là chủ thể tạo tác, cũng không phải là vật được tạo tác; vì vậy, muốn trông thấy Phật trước hết phải thấy rõ tính chất vô thường của năm uẩn, bốn đại, cũng như tính chất vô ngã, không tịch của vạn tượng, Không có ta, không có người; không có vật tạo tác, không có vật được tạo tác. Tất cả vạn pháp là không tịch, pháp tính bao trùm mọi nơi, pháp thân Phật không có chỗ nào là không hiện hữu. Ta qui y và hành trì giáo pháp của Phật, đã thể chứng được diệu lí không của các pháp thì không thể nào để cho sự tướng làm mê hoặc”.

Vì nhận thức như vậy cho nên tôn giả không theo mọi người xuống núi, tiếp tục vá áo một cách thong thả, thản nhiên.

Đức Phật từ thiên cung trở về là một việc vui mừng rất lớn đối với tăng đoàn. Tất cả mọi người mặt mày hớn hở. Ai cũng mong được gặp Phật và lạy Phật trước nhất. Bấy giờ trong chúng tì kheo ni, ni sư Liên Hoa Sắc (Utpalavarna – Uppadavana) là người có thần thông bậc nhất. Ni sư đã nhanh chân xuống núi trước nhất, vừa đảnh lễ đức Phật, vừa thưa:

– Bạch Thế Tôn! Con là Liên Hoa Sắc, xuống nghinh đón Thế Tôn trước tiên, xin cho con được đảnh lễ Thế Tôn.

Đức Phật mỉm cười và dịu dàng bảo:

– Ni sư Liên Hoa Sắc! Lần này Như Lai trở về, người nghinh đón Như Lai trước nhất không phải là ni sư đâu!

Liên Hoa Sắc cực kì kinh ngạc. Ni sư nhìn quanh quất, chư tăng và chư ni, kể cả các vị trưởng lão của tăng đoàn như tôn giả Đại Ca Diếp, cũng vẫn vừa mới xuống tới, còn đang ở sau lưng mình kia mà! Lòng rất đổi hoài nghi, ni sư bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Vậy thì còn có vị nào đã tới đây trước con?

Vẫn nụ cười từ hòa, đức Phật nhìn khắp lượt đại chúng, vừa trả lời ni sư Liên Hoa Sắc, vừa nhu muốn bảo chung cho đại chúng biết:

– Chính Tu Bồ Đề là người đã người đã nghinh đón Như Lai trước nhất. Tu Bồ Đề đang ở trong động Kì Xà, quán chiếu thấy rõ tính không của các pháp, thấy rõ được pháp thân của Như Lai, như thế mới chính thực là nghinh đón Như Lai trước nhất.

Nghe Phật dạy như thế, ni sư Liên Hoa Ssắc cùng tất cả đại chúng hiện diện đều lấy làm hổ thẹn, tự biết mình không sánh kịp với Tu Bồ Đề trong việc thể hội chân lí về vũ trụ và nhân sinh.

9.- ĐỆ NHẤT A LA HÁN:

– Trong tâm tính cũng như trong sinh hoạt hàng này, Tu Bồ Đề lúc nào cũng tỏ ra điềm đạm và tự tại; lúc nào cũng an trú trong cái thấy không, tức là đạt được cái cảnh giới thiền định giải thoát.

Trong tâm tính cũng như trong sinh hoạt hàng ngày. Tu Bồ Đề lúc nào cũng tỏ ra điềm đạm và tự tại; lúc nào cũng an trú trong cái thấy không, tức là đạt được cái cảnh giới thiền định giải thoát.

Đã sinh ra làm người ở trên thế gian, dù quí vị có là thánh nhân, đôi khi vẫn phải mang lấy những điều tiếng thị phi, đàm tiếu; dù quí vị có như viên ngọc bích trắng trong, xa lìa danh lợi, một lòng phụng sự chúng sinh, thì vẫn bị những kẻ phàm phu tục tử kiếm cớ gây chuyện, phao vu, nói xấu.

Tu Bồ Đề chuyên tâm tu tập và hoằng hóa, ngày ngày chỉ mong làm được việc gì để lại lợi ích cho mọi người, còn đối với những điều tiếng thị phi, những khinh bạc của nhân tình, tôn giả đều coi như gíó thoảng mây bay, không bao giờ để tâm hờn giận.

Một ngày nọ, trên đường đi hoằng hóa, tôn giả bỗng nghe được có người đang bình phẩm về cá nhân mình. Họ nói: “Quí vị thấy đó, Tu Bồ Đề có giới là giỏi đâu! Một chút công hạnh tu hành cũng không có, lúc nào cũng như si si, ngốc ngốc, chẳng hề làm được tích sự gì trong chúng cả”.

Một số quí vị tì kheo nghe thế rất ấy làm bất bình, đều hỏi tôn giả tại sao không đến biện bạch với họ. Tôn giả an nhiên trả lời:

– Thưa quí sư huynh! Xin cám ơn quí sư huynh đã quan tâm và tỏ lòng ưu ái đối với tôi, nhưng xin quí sư huynh đừng nên bất bình đối với họ. Chúng ta nên biết rằng, biện bạch những chuyện không xứng đáng tức là gây những tranh luận vô ích. Đã nói đến tranh luận tức là nói đến tâm muốn hơn thua, và như vậy tức là đi ngược lại chân lí. Trong cuộc đời tu hành, chúng ta hãy coi tất cả những lời chê bai, dèm pha, thậm chí những nghịch cảnh, ma nạn, đều là những tăng thượng duyên giúp ta tiêu trừ nghiệp chướng, và gia tăng sức mạnh cho lòng tin. Vả lại, trong thế giới chân lí, thực tại không bao giờ phải tranh biện. Chân lí là không có ta, không có người, không có đây, không có kia; không cao, không thấp, không thánh, không phàm. Tôi chỉ biết có một thực tướng bình đẳng, vô trú, đó là chân không, cho nên tâm tôi giống như vòm trời không tạnh, bàng bạc muôn dặm; cái gì cũng không có thì cần gì phải biện bạch!

Tâm ý của tôn giả là như thế. Phong thái của tôn giả là như thế. Thật là khoát đạt tự tại. Đó là điều làm cho người ta kính phục.

Đức khiêm nhường của Tu Bồ Đề cũng thật là có một không hai. Tôn giả thường hay tùy thuận thế gian, thực hành đại nhẫn nhục. Đối với tất cả mọi người, không bao giờ buồn giận, cãi cọ. Sở dĩ được như vậy là vì tôn giả đã thông đạt được diệu lí của tính không.

Biết được công phu tu tập của Tu Bồ Đề như vậy, đức Phật rất lấy làm hoan hỉ và đã từng khen ngợi tôn giả trong pháp hội Bát Nhã rằng:

– Này Tu Bồ Đề! Trong các đệ tử của Như Lai, người tu tập đến trình độ như thầy thật là ít có. Thầy đã chứng được Vô tránh tam muội, có công đức cao tột trong đời. Thầy đã là bậc Đệ Nhất Li Dục A La Hán. Như Lai rất lấy làm hoan hỉ.

Được Phật khen ngợi, nhưng Tu Bồ Đề vẫn không dám nhận. Tôn giả chắp tay thưa:

– Bạch Thế Tôn! Đối với đệ tử chúng con, Thế Tôn lúc nào cũng dùng lời từ ái để khuyến khích, con thật không biết dùng lời gì để bộc lộ cho hết lòng chân thành cảm kích của chúng con. Thế Tôn bảo con là người có công đức cao tột trong đời, là bậc Đệ Nhất Li Dục A La Hán, nhưng con tuyệt nhiên không cho mình là bậc Li Dục A La Hán, vì như thế tức là ngã chấp vẫn chưa đoạn trừ, và rồi suốt ngày lại còn chìm đắm trong cái pháp chấp có chứng đắc. Bạch Thế Tôn! Con không ý tưởng như thế, cũng không có công hạnh như thế; do từ thực tính vô sinh, vô vi mà Thế Tôn mới ban cho con những lời từ ái như vậy.

Tôn giả quả là người có đức khiêm cung, lại nói năng khéo léo. Nhìn hành vi, xem thái độ, nghe lời nói, ai cũng nhận được rằng Tu Bồ Đề là người đã chứng được thánh quả.

10.- TRONG NÚI SỐNG ĐỜI AN LẠC, MƯA HOA RỢP ĐẤT CÚNG DƯỜNG:

Đối với tất cả mọi việc ở đời, không có gì phải tranh đoạt, không có gì để mong cầu, tôn giả Tu Bồ Đề quả là bậc Li Dục A La Hán, như đức Phật đã từng ca ngợi. Đời sống của tôn giả, khi thì ở chung với tăng đoàn để cùng tu học với đại chúng dưới sự dạy dỗ trực tiếp của đức Phật. khi thì ở một mình trong rừng núi để thực tập thiền định.

Kì Xà là một ngọn núi rất nổi tiếng, dáng vẻ xinh đẹp. có trúc xanh, rừng rậm, là nơi rất thích hợp cho nếp sống tu hành; bởi vậy, đức Phật đã thường ngự ở đó. Tôn giả Tu Bồ Đề vốn rất thích cuộc sống ở núi rừng, cho nên núi này cũng đã là nơi cư ngụ thường xuyên của tôn giả. Những ngày nắng ráo, tôn giả thường sống ngoài trời, khi thì thiền tọa tư duy dưới gốc cây, khi thì kinh hành quán tưởng bên trên triền núi; vào mùa mưa thì tôn giả thường ở yên trong động. Với cái thấy của tôn giả thì núi sâu rừng rậm chính là chốn đạo tràng tốt đẹp nhất cho người tu hành; nơi đó, ban ngày có thể nhìn ngắm chim cò khỉ vưọn, ban đêm thì bầu bạn với trăng sao và lắng nghe tiếng rầm rì của ngàn loại côn trùng.

Một hôm, Tu Bồ Đề ngồi nhập định trong động núi. Lúc tôn giả đạt tới và an trú ở cảnh giới vi diệu của Không tam muội thì rúng động cả chư thiên. Họ bèn cùng nhau xuất hiện giữa hư không, tưng từng đóa hoa trời xuống trước mặt tôn giả và chắp tay ca ngợi rằng:

– Thưa tôn giả Tu Bồ Đề! Làm người ở thế gian, dù có danh vị cao xa, của cải châu báu thật nhiều cũng không có gì đáng tôn quí. Dù có là quốc vương hay phú hộ thì rốt cuộc họ cũng chỉ là tù nhân của phiền não và dục vọng mà thôi. Thưa tôn giả! Điều tôn quí chân thật ở thế gian chính là sự tu hành cao cả mà tôn giả đang thể hiện. Chính cái uy đức cao sâu của tôn giả tỏa chiếu trong lúc tôn giả đạt đến cảnh giới Không tam muội đã làm cảm kích cả thiên cung chúng tôi. Tu Bồ Đề của loài người xứng đáng hưởng thọ sự cúng dường của cõi trời. Người khéo nói Bát Nhã, tự tại vân du trong cõi trời xanh muôn dặm của Không tam muội, vượt thoát tất cả những phàm tình của nhân gian; dù là mây đen phiền não hay mây trắng bồ đề cũng không che phủ được người. Người đã hoàn toàn chặt đứt sợi dây sắt của dục tình, bẻ gãy ống khóa vàng của pháp chấp. Thưa đại đức Tu Bồ Đề tôn quí! Xin người hãy tiếp nhận hoa trời của chúng tôi cúng dường. Chúng tôi xin đảnh lễ người để tỏ lòng kính ngưỡng.

Lời ca ngợi của chư thiên và hoa trời tung rơi đã làm cho tôn giả xuất định. Tôn giả nhìn họ hỏi:

– Quí vị là ai? Sao lại đến đây rải hoa và ca ngợi tôi?

Vị đứng đầu thiên chúng đáp:

– Thưa tôn giả! Tôi là trời Đế Thích (Sakra Devanamindra), còn tất cả đây đều là thiên chúng.

– Vì sao quí ngài lại ân cần ca ngợi tôi như vậy?

– Vi chúng tôi kính ngưỡng tôn giả đã an trú trong Không tam muội và đã khéo nói Bát Nhã Ba La Mật.

– Đối với Bát Nhã, tôi chưa hề nói được một chữ thì hà tất quí ngài phải ca ngợi.

– Tôn giả đã không nói thì chúng tôi cũng không nghe. Không nói không nghe, đó là chân bát nhã.

– Trong pháp hội Bát Nhã, đức Thế Tôn đã từng tuyên dạy pháp môn cao sâu mầu nhiệm; và trong khi hộ trì cho đạo tràng, quí ngài đã lĩnh hội và tin nhận pháp môn ấy. Tôi xin cảm tạ quí ngài đã cho nhiều hoa thật đẹp, thật thơm. Xin nguyện mùi thơm của hoa sẽ tỏa khắp cõi người và cõi trời.

Tu Bồ Đề nói xong, chư thiên lại đảnh lễ rồi trở về thiên giới.

Đói với sự việc này – chư thiên tung hoa cúng dường và ca ngợi – ngoại trừ Phật ra, chỉ có tôn giả Tu Bồ Đề là người duy nhất trong tăng đoàn được đón nhận cái vinh dự ấy.

11.- CHƯ THIÊN TRỔI NHẠC THĂM BỊNH:

Trong thời gian cư ngụ tại núi Kì Xà, có một hôm Tu Bồ Đề bị bịnh nặng, thân tâm vô cùng mệt mỏi. Nhiều người thắc mắc tự hỏi: “Một bậc thánh có công hạnh tu hành lớn lao như vậy mà cũng phải bị bịnh hoạn sao?” Sự thực thì cái sắc thân của con người vốn là pháp hữu vi, do nghiệp báo chiêu cảm mà có. Đã là pháp hữu vi thì đâu có tránh khỏi được các hiện tượng khổ và vô thường! Tuy Tu Bồ Đề đã chứng được thánh quả, tâm ý đã hoàn toàn giải thoát, nhưng cái thân thể hữu vi vẫn còn đó, cho nên vẫn phải chịu những khổ đau của sinh, già, bịnh, chết.

Lúc đó, Tu Bồ Đề bịnh rất nặng, nhưng cố gắng tự mình trải tọa cụ xuống đất, ngồi ngay thẳng trong tư thế hoa sen, giữ vững chánh niệm và quán tưởng rằng: “Sự đau khổ về bịnh hoạn của thân thể này từ đâu mà có? Ta phải làm thế nào để tiêu trừ được bịnh khổ này đây?” Tôn giả cứ quán niệm về các câu hỏi ấy rồi tự trả lời: “Nguyên nhân đưa đến bịnh khổ cho thân thể một phần là các nghiệp báo tích lũy từ thời quá khứ, một phần khác là do sự bất ổn trong mối quan hệ giữa các duyên trong đời hiện tại. Thuốc men chỉ có thể trị bịnh tạm thời mà không thể làm cho khổ đau tiêu trừ tận gốc rễ. Chỉ có sám hối tội nghiệp, tu tập thiền quán, thấy rõ nhân quả để tiêu trừ khổ đau nơi tâm ý thì cái khổ đau nơi thân thể mới không còn nữa”.

Tôn giả cứ tiếp tục như thế, một lúc sau thì cảm thấy thân tâm thư thái, nhẹ nhàng tự tại, những khổ đau của bịnh hoạn tan biến hoàn toàn.

Chính vào lúc đó, trời Đế Thích dã cùng năm trăm thiên chúng, cùng rất đông các vị thần âm nhạc giáng lâm núi Kì Xà. Họ đến trước mặt Tu Bồ Đề, tấu nhạc và hát rằng:

Uy đức người ngần ngật như trời cao,

Công hạnh người hun hút như sông dài.

Vượt thoát biển sinh tử,

Dập tắt lửa hữu vi,

Lắng trong các hành nghiệp,

Dứt sạch bao phiền não.

Từ thiền định, tuệ giác người sáng tỏ,

Bịnh khổ giờ đã tiêu trừ,

Pháp thể giờ đã khinh an.

Khúc hát dứt, âm nhạc ngưng. Trời Đế Thích cùng thiên chúng bái kiến Tu Bồ Đề. Tôn giả đáp lễ và khen ngợi:

– Tiếng nhạc và lời ca của quí ngài thật là tuyệt vời!

Trời Đế Thích hỏi thăm:

– Xin hỏi thăm tôn giả, lúc này bịnh tình đã khỏi hẳn chưa?

Tôn giả trả lời:

– Các pháp từ nhân duyên sinh ra và cũng từ nhân duyên mà tiêu diệt. Nhân duyên hòa hợp thì có chuyển động và sinh thành, nhân duyên phân rã thì các pháp đình chỉ và tan rã. Các pháp làm thành nhau mà cũng tiêu diệt nhau. Các pháp sinh ra một pháp và một pháp sinh ra các pháp. Mỗi pháp tự nó đều có nhân, có duyên và có quả. Dùng cái trắng trị cái đen và đồng thời dùng cái đen trị cái trắng. Muốn trị bịnh tham dục thì dùng phép quán niệm về sự không trong sạch; trị bịnh sân hận thì dùng phép quán niệm về lòng từ bi; trị bịnh ngu si thi phải dùng trí tuệ giác ngộ. Tất cả vạn pháp trong thế gian đều là biểu hiện của tính không, không có tướng ngã, không có tướng nhân, không có phân biệt nam nữ, không có gì khác nhau giữa phải và trái, tất cả vạn pháp đều “là như vậy”. Quí ngài hãy nhìn xem, gió bão có thể xô ngã cây to, sương tuyết có thể làm hư bông lúa; nhưng những cây cỏ khô héo kia, nếu gặp tiết xuân ấm áp, mưa thuận gió hòa thì tức khắc hồi sinh, đâm chồi nẩy lộc. Các pháp có những lúc chống phá nhau mà rồi cũng có những lúc làm cho nhau được an định. Cái bịnh khổ của Tu Bồ Đề này sinh ta, đó là lúc các pháp chống phá nhau; nhưng pháp Phật như nước cam lồ, thiền quán như gió mùa xuân, tôi nhờ đó mà bịnh tình bình phục. Tôi xin cám ơn quí ngài đã ân cần đến thăm. Hiện giờ tôi cảm thấy thân tâm đều an lạc tự tại.

Thiên chúng vô cùng hoan hỉ, đảnh lễ, tôn giả, rồi trở về thiên cung, còn lại một mình, tôn giả trầm ngâm độc thoại:

Đức Phật từng từ bi dạy bảo,

Chỉ có Phật pháp mơí chữa trị được những đau khổ của thân tâm.

Nhưng không phải đợi đến lúc bị bịnh mới cầu xin,

Mà hàng ngày phải nghe pháp tu hành,

Tạo căn cơ đầy đủ cho sự chứng ngộ.

Nên sám hối nghiệp chướng,

Vững tin vào nhân quả,

Và tích lũy phước huệ,

Đó mới là phương thuốc mầu nhiệm của mọi bịnh khổ.

12.- GIẢNG LUẬN DIỆU LÍ “KHÔNG” TẠI PHÁP HỘI BÁT NHÃ:

Một hôm tại pháp hội Bát Nhã, đức Phật bảo tôn giả Tu Bồ Đề:

– Này Tu Bồ Đề! Thầy đã thể hội được đạo lí chân không, lại có đầy đủ biện tài. Trong pháp hội hôm nay có sự hiện diện rất đông của chúng Bồ Tát, thầy hãy nói cho họ nghe về pháp “Tương Ưng Bát Nhã Ba La Mật” để họ bổ túc thêm cho sự học hỏi và cũng là để cùng nhau sách tấn việc tu tập.

Tất cả đại chúng đều biết rằng pháp môn Bát Nhã là pháp môn vô cùng sâu xa mầu nhiệm. Nay nghe đức Phật bảo thế thì họ đều tự hỏi rằng, Tu Bồ Đề sẽ dùng trí tuệ biện tài của chính mình hay thừa thọ uy lực của đức Phật để thuyết minh?

Tôn giả đã thấy rõ tâm ý ấy của đại chúng, bèn nói:
– Đã có từ mệnh của Phật, tôi đâu dám không tuân. Là đệ tử Phật, mỗi khi chúng ta thuyết giáo, bất luận là giáo pháp sâu hay cạn, nếu đáp ứng được hai điều kiện khế lí và khế cơ, là đều do thừa thọ uy lực của Phật cả. Bởi vì, có thừa thọ tuy lực của Phật thì mới có thể khuyên người tu học, có thể thực chứng được bản tính của vạn pháp, có thể tương ưng với thật tướng của vạn pháp, cũng như có thể cảm thông được tâm ý của đức Phật. Hôm nay tôi cũng xin nương vào uy lực của đức Phật để nói về pháp “Tương Ưng của Trí Tuệ Bát Nhã” của những người tu học đạo Bồ Tát.

Tôn giả lại đảnh lễ Phật và thưa rằng:

Bạch Thế Tôn! Vâng lời dạy của Thế Tôn, giờ đây con xin nói về pháp tương ưng giữa Bồ Tát và trí bát nhã. Nhưng pháp gì gọi là Bồ Tát, và pháp gì gọi là bát nhã? Thật ra con không thấy có pháp nào gọi là Bồ Tát, cũng không thấy có pháp nào gọi là bát nhã. Thậm chí cả cái danh xưng của hai pháp này, con cũng không thấy có gì khác nhau để phân biệt. Bạch Thế Tôn! Pháp tương ưng giữa Bồ Tát và trí bát nhã là như thế. Xin Thế Tôn chỉ dạy cho, con nói như thế đã đủ để bổ túc cho sự tu học cho chúng Bồ Tát chưa?

Đức Phật hoan hỉ khai thị:

– Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát chỉ có cái danh xưng là Bồ Tát; bát nhã cũng chỉ có cái danh xưng là bát nhã; ngay cả cái gọi là danh xưng của Bồ Tát và bát nhã cũng chỉ có danh xưng mà thôi. Cái đó vốn không sinh không diệt, chẳng qua vì để tiện việc diễn nói mà phải tạm lập ra danh xưng. Cái giả danh ấy cũng không phải ở trong, không phải ở ngoài, cũng không phải là ở khoảng giữa của trong và ngoài; nó vốn là cái gì không thể nắm được (bất khả đắc). Cũng ví như nói ngã, đó cũng cũng chỉ là giả danh. Bản thể của ngã vốn không sinh không diệt. Tất cả các pháp hữu vi đều giống như giấc mộng, như tiếng vang, như bóng, như ảo, như trăng dưới nước. Mặc dù vậy, này thầy Tu Bồ Đề! Bồ Tát muốn chứng đạt cái không sinh không diệt, vẫn phải tu học cái giả danh và giả pháp của pháp Bồ Tát và pháp bát nhã. Này thầy Tu Bồ Đề! Bồ Tát tu học pháp bát nhã, sắc thọ tưởng hành thức là thường hay vô thường, vui hay khổ, ngã hay vô ngã, không hay bất không, hữu tướng hay vô tướng, hữu vi hay vô vi, dơ hay sạch, sinh hay diệt, lành hay dữ, hữu lậu hay vô lậu, thế gian hay xuất thế gian, luân hồi hay niết bàn, đối với tất cả các pháp ấy đều không chấp trước, không phân biệt, và đối với tất cả các pháp khác nữa cũng đều như vậy. Này thầy Tu Bồ Đề! Vì sao Như Lai nói thế? Vì Bồ Tát khi tu học pháp bát nhã thì đối với tất cả vạn pháp không nên sinh tâm phân biệt mà phải an trú ở tính không, an trú ở tính vô phân biệt. Bồ Tát khi tu học sáu pháp ba la mật cùng các hạnh bồ tát khác cũng không thấy có danh xưng Bồ Tát, không thấy có danh xưng ba la mật. Bồ Tát chỉ cầu đạt được tuệ giác siêu việt, thấy tất cả đều là thật tướng của các pháp, và cái thật tướng ấy thì không dơ, không sạch. Nếu Bồ Tát quán chiếu và tu tập pháp bát nhã như thế, biết rằng danh tướng chỉ là vì phương tiện mà giả tạm lập nên, thì đối với sắc thọ tưởng hành thức cùng tất cả các pháp khác đều không chấp trước, đối với trí tuệ cũng không chấp trước, đối với thần thông cũng không chấp trước, đối với bất cứ pháp gì cũng không chấp trước. Vì sao vậy? Tại vì, nếu có chấp trước, thì không bao giờ đạt được giải thoát. Này Tu Bồ Đề! Khi Bồ Tát quán chiếu và tu học pháp bát nhã như vậy và không chấp trước đối với tất cả vạn pháp thì có thể hoàn thành công hạnh tu tập sáu pháp ba la mật, có thể tiến vào quả vị bất thối, đầy đủ thần thông, qua lại các cõi Phật, hóa độ chúng sinh, trang nghiêm Phật độ, và tự mình an trú trong cảnh giới tự tại giải thoát. Này Tu Bồ Đề! Sắc có phải là Bồ Tát không! Thọ, tưởng, hành, thức, có phải là Bồ Tát không? Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân ý, có phải là Bồ Tát không? Đất, nước, gió, lửa, không, thức, có phải là Bồ Tát không? Người nào xa lìa được sắc, thọ, tưởng, hành, thức, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, đất, nước, gió, lửa, không, thức, cũng có phải là Bồ Tát không?

Tu Bồ Đề thưa:

– Bạch Thế Tôn! Tất cả những gì Thế Tôn vừa nêu lên đó, đều không thể gọi là Bồ Tát.

– Này Tu Bồ Đề! Vì sao mà thầy bảo là tất cả những gì tôi vừa nêu lên đó đều không thể gọi là Bồ Tát! Thầy có thể cho biết được không?

– Bạch Thế Tôn! Cái mà xưa nay vẫn được gọi là chúng sinh là cái không thể biết, không thể nắm bắt; bất luận là pháp gì đi nữa, kể cả Bồ Tát, cũng đều là như vậy cả. Bảo rằng có pháp này, bảo rằng không có pháp này, cho đến bảo rằng xa lìa pháp này, đều không thể gọi là Bồ Tát.

Phật khen ngợi:

– Đúng như vậy, thầy Tu Bồ Đề! Cái được gọi là Bồ Tát, được gọi là bát nhã đều không thể nắm bắt. Bồ Tát tuy đang tu tập nhưng vốn thật không có tu tập. Này thầy Tu Bồ Đề! Tôi lại hỏi thầy, các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức v.v.. có phải là ý nghĩa bồ tát không?

– Bạch Thế Tôn! Sắc, thọ, tưởng, hành, thức v.v… đều không phải là ý nghĩa bồ tát.

– Tu Bồ Đề! Thầy nói rất đúng. Bồ Tát khi tu tập trí tuệ bát nhã, đối với các pháp sắc thọ tưởng hành thức, hoặc thường hoặc vô thường, hoặc hữu vi hoặc vô vi v.v… đều không thể nắm bắt. Bồ Tát hãy lấy tâm ý trống không rộng rãi để tu tập trí tuệ bát nhã. Này Tu Bồ Đề! Thầy nói thầy không thấy có Bồ Tát cùng danh xưng Bồ Tát, pháp cùng pháp giới, pháp giới cùng nhãn giới, nhãn giới cùng ý thức giới v.v… những pháp tương đối này đều không phải là đối lập nhau. Vì sao vậy? Vì nếu bỏ pháp hữu vi thì không thể thành lập pháp vô vi được. Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát tu tập trí tuệ bát nhã như thế đó, không thấy có bất cứ pháp gì thì sẽ không có sợ hãi, tâm ý không dính mắc ở bất cứ pháp nào thì sẽ không có hối hận. Như thầy đã nói, Bồ Tát tu học trí tuệ bát nhã như thế đó cũng không dính mắc vào danh xưng Bồ Tát, đó mới là chân danh Bồ Tát, chân danh Bát nhã; đó mới là giáo pháp của Bồ Tát đã nói.

Trong số mấy vạn thính chúng tại pháp hội Bát Nhã này, chỉ có đức Phật và Tu Bồ Đề đối thoại với nhau, đó là vì chỉ có Tu Bồ Đề là người thể chứng được trí tuệ bát nhã và có nhận thức sâu sắc, rốt ráo về đạo lí KHÔNG sâu xa mầu nhiệm, và cũng vì thế mà tôn giả được tôn xưng là vị thượng thủ hiểu rõ về tính không bậc nhất trong tăng đoàn.

Les commentaires sont fermés.