Theo nghĩa hẹp, nhẫn nhục là nhịn chịu mọi nhục nhã và mọi khó khăn trở ngại, và vượt qua chúng một cách bình ổn. Nhà Phật gọi những chướng duyên làm ngăn trơ ûsự tiến tu là ma chướng, gồm ngoại ma (trở ngại do người khác hoặc hoàn cảnh bên ngoài gây ra)và nội ma (trở ngại từ chính thân tâm mình)
Theo nghĩa rộng, nhẫn nhục là không sanh tâm khởi niệm khi tiếp duyên xúc cảnh, mà đỉnh cao là Vô sanh nhẫn hay Vô sanh pháp nhẫn. Trước tất cả pháp, dù thấy nghe hiểu biết mọi sự nhưng tâm Bồ tát không xao động, không chấp trước. Do tâm không nên các pháp đèu không, dù là pháp thế gian hay pháp xuất thế. Đây là ý nghĩa của Vô tâm trong nhà Thiền, nhẫn nhục xứng theo tự tánh nên phù hợp với Ba-la-mật.
Ngày xưa, các vị Tổ Sư thường tạo những nghịch duyên để thử thách một số môn đệ có khả năng đảm đương việc lớn. Ngài Linh Hựu lúc được thầy giao trọng trách về núi Qui để phát huy tông phong, không được Thầy cho một thứ tài sản vật chất gì, chỉ một thân một mình trên núi hoang đầy thú dữ. Hàng ngày Ngài chỉ uống nước suối ăn quả rừng, ròng rã suốt bảy năm, khi cơ duyên đến mới hoằng truyền chánh pháp, để sau này dưới pháp hội của ngài là cả ngàn môn đệ. Đây là ý nghĩa thâm trầm cùa sự tu hành không ngại khó khổ, nhẫn nhục trước mọi sóng gió gian lao. Cho nên, trong nhà Thiền thường có chủ trương hơi kì lạ: không sợ thất bại mà lại sợ thành công dễ dàng. Cây mọc nơi đất khô cằn, nếu lớn lên được thì có lõi rất cứng chắc. Cây mọc nơi đất đai phì nhiêu được vun bón tưới tẩm thường xyên lại dễ đỗ ngã khi có giông bão. Cũng vậy, một người trải qua nhiều gian khổ thử thách mà vươn lên là người đáng tin cậy, có thể giao trọng trách ; còn người nào muốn nương nhờ thầy thường ỷ lại, đến khi gặp một trở ngại nhỏ cũng có thể thối tâm Bồ Đề. Vả lại, khi có nhiều thuận duyên, ngươi tu dễ có ảo tưởng là đường tu rất suông sẻ, tu là để thụ hưởng, cuộc đời tu luôn luôn an vui đầy đủ, điều này có hại hơn có lợi cho công phu hành trì.
Nhẫn nhục là một pháp tu trong Lục Độ. Nếu như không có sân hận thì Phật không chế pháp nhẫn nhục Ba La Mật. Như quý vị thừa biết sân hận vô cùng nguy hiểm, chỉ một niệm lòng sân hận nổi lên, thì trăm ngàn muôn ức cửa nghiệp chướng đều mở ra. Một đớm lữa sân, có thể đốt sạch muôn mẫu rừng công đức.
=======================================================
Vậy thế nào là Nhẫn Nhục Ba La Mật.
Nhẫn là nhịn, chịu đựng những cảnh trái tai gai mắt. Nhục là điều sĩ nhục, điều xấu hổ, làm tổn thương đến lòng tự ái của mình. Ba La Mật là vượt qua ngằn mé cùng tột của sự nhẫn nhục này.
Nhẫn nhục Ba La Mật gồm :
1 – Thân nhẫn : Những nghịch (s’opposer) cảnh như nắng mưa, nóng lạnh, đói khác, đau ốm, hành hạ bức não, đánh đập mìm thây, mình phải cam chịu, không phàn nàn, không trách móc, đây là nhẫn nhục ở thân xác.
2 – Khẩu nhẫn : Đành thân đã nhẫn như thế thì miệng không thốt ra lời than vang, lời nguyền rủa độc ác, mắn nhiếc tồi tệ hay văn thư thiển cận như Minh Tâm hoặc chiếu chỉ nô dịch, kém đạo đức, non lòng từ của Tâm Châu.
3 – Ý nhẫn : Ý nhẫn là khó nhất, không có ý hắc ám trả thù (Vengeance), câm hờn (Nourrir une haine implacable), oán giận, phản đối. Trong ba thứ nhẫ này, ý nhẫn là quan trọng nhất. Có nhiều khi thân có thể chịu đựng được nghịch cảnh cực hỉnh như tù cải tạo Cộng Sản là tối đa, nhưng miệng vẫn lẫm bẩm nguyền rũa, khá hơn và khôn hơn tí miệng không thốt ra lời nhưng ý ngấm ngầm phản đối, tức giận như dốt cả tim gan như Thiền Sư Nhất Hạnh. Đặc biệt tâm ý thản nhiên, hành Bồ Tát Đạo trong tay chỉ có sâu chuổi, không có chút vũ khí gì trong người nhưng mà vẫn hiên ngang thể hiện lòng dũng cảm đứng trức nghịch cảnh xã hội Việt Nam lòng vẫn phẵng lặng, kiên cường, vô úy đến ngày Viên tịch như Cố Hòa Thượng Đại Giác hay còn sinh tiền như Đại Lão Hòa Thượng Thích Quãng Độ.
Nhẫn nhục như thế nào mới đúng pháp.
Nhẫn nhục còn chấp tướng : Sợ quyền thế mà nhẫn nhục, chịu đấm ăn sôi, đang nằm trong hoàn cảnh bất lợi chưa thể trả thù được, nhẫn nhục để được khen, nhẫn nhục để được quyền cao chức trọng, hay được tấn phong thượng toạ, hòa thượng, nhẫn nhục khinh bỉ đối tượng…Như vậy tu nhẫn nhục này vì còn dây dưa của dục vọng để tham sân si mạn nghi biên kiến thúc đẩy nên không đặt ở ngôi vị nhẫn nhục Ba La Mật.
Nhẫn nhục không chấp tướng : Đã học rồi Chánh Kiến, thể nghiệm qua nguyên nhân Khổ Đế, tu quán Thập Nhị Nhân Duyên, đến đây phải triệt tiêu vi tế phiền não. Thân ngũ uẩn, Tâm vô thường, pháp vô ngã, cái này có trong cái kia, hoặc cái này có tất cả là cái kia cũng có tất cả hay cái này không tất cả thì cái kia cũng không tất cả… Phát trí này thì tự mình thấy có phận sự thượng hoằng phật đạo hạ hóa quần sanh cho đến khi mọi chúng sanh đến bờ giác hết cả rồi, mà ông lái đò vẫn còn đưa đưa đưa mãi không biết mõi mệt trên dòng nước lớn nước ròng. Thân khẩu ý nhẫn rực rỡ oai hùng bi tráng nhất là Bồ Tát Vị Pháp Thiêu Thân Hòa Thượng Thích Quãng Đức ( 1963 ).
Thơ Nhẫn
Thân nhẫn miệng nhẫn tâm nhẫn
Những điều trái chủ oan gia nào còn
Thân nhịn miệng nhịn tâm nhịn
Nghìn tai muôn họa đồng thời tiêu tan
Thân nín miệng nín tâm nín
Thần tiên hỷ lạc từ đây mà thành
Thân thanh tịnh miệng ngọt lời
Nghĩ suy chừng đó Bồ Đề đơm hoa
Hãy nhẫn hành ngay nhẫn này
Hãy nhẫn niệm Phật quyết cầu vãng sanh
Hãy nhẫn không thành hôm nay
Hãy nhẫn thì ngay mai vẫn đợi chờ
Hãy nhẫn với Tâm nhẫn này
Cùng nhau hãy nhẫn đạo Mầu không xa
Mọi đức hạnh về nhẫn nhục gói trọn vào bài thơ trên kính dâng lên qúy vị tường lãm.
Nhẫn nhục không phải là sự bi lụy, yếu đuối, hèn hạ, nhẫn là một thái độ tích cực rất sáng suốt do trí tuệ dắt dẫn, khi vấp phải những thất bại không chán nản tuyệt vọng, đạt được thành công không kiêu căng tự đắc, đó là ý nghĩa của nhẫn…
Nhẫn Nhục Ba-La-Mật (Khanti-pāramitā)
1. Định nghĩa nhẫn nhục:
Chữ “nhẫn” trong chữ Hán được viết như sau: 刃 (nhận) +心 (tâm) = 忍
Chữ 刃 (nhận) nghĩa là sự nguy hiểm, mũi nhọn, chém giết
Chữ 心 nghĩa “tim”, chữ tâm được dùng rất phổ biến như tâm cảnh 心境, tâm địa 心地 nghiên cứu về hiện tượng ý thức gọi là tâm lý học 心理學, Phật học thì thượng gọi vạn pháp duy nhất tâm, gọi tắc duy tâm 唯心
“Tâm được chia làm hai phần, (1) vọng tâm 妄心 cái tâm nghĩ ngợi lan man sằng bậy, (2) chân tâm真心 cái tâm nguyên lai vẫn sáng láng linh thông, đầy đủ mầu nhiệm không cần phải nghĩ mới biết, cũng như tấm gương trong suốt, vật gì qua nó là soi tỏ ngay, khác hẳn với cái tâm phải suy nghĩ mới biết, phải học hỏi mới hay. Nếu người ta biết rõ cái chân tâm (minh tâm 明心) mình như thế mà xếp bỏ sạch hết cái tâm nghĩ ngợi lan man sằng bậy đi thì tức thì thành đạo ngay”. [1]
Theo Hán-Việt tự điển thì chữ “nhẫn” 忍 có nghĩa là nhịn, như làm việc khó khăn cũng cố làm cho được gọi là kiên nhẫn 堅忍, nhẫn là lòng khoan dung độ lượng.
Tại sao chữ nhận 刃 (nhận) nằm trong chữ tâm 心 gọi là nhẫn, nghĩa là người tạo chữ muốn nói trong cuộc sống hằng ngày tâm mình thường hay tiếp xúc nhiều thứ nguy hại như những phiền não tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến…chúng thường làm não hại tâm mình. Cho nên nhẫn nhục là tâm phải chịu đựng những sự não hại bên ngoài mà tâm không sân hận (刃 (nhận) +心 (tâm) = 忍 nhẫn.)
“Nhẫn nhục tiếng Phạn gọi “Khanti” là một phương pháp tu của Bồ-tát trong thập độ ba-la-mật, từ “nhẫn” có nghĩa nhẫn nhịn, kiêng cữ, kiên nhẫn, sự ôn hòa”. [2]
“Chân thực và nhu hòa
Kham nhẫn và dịu hiền
Hòa thuận và đón tiếp
Bất hại và thanh tịnh” [3]
Theo D.T. Suzuki giải thích ý nghĩa “nhẫn nhục” như sau: “không cảm giác thất vọng khi đối diện với những điều xấu”, nhẫn nhục luôn đối trị sự tức giận (kodha), lòng căm thù (dosa) sự đáng ghét, không ưa (patigha) và tính hiểm độc, ác tâm, ác ý. Vì vậy, “nhẫn nhục” được định nghĩa là một sự giải thoát từ cái tâm giận dữ, và sự kích động (gây hấn, phấn khích) thối quen thường chịu đựng, tha thứ sự tổn thương (gây hại) và xúc phạm”.[4]
“Nhẫn nhục Ba-la-mật là chịu đựng những phiền não mà người khác gây ra cho mình và gánh chịu những lỗi lầm của kẻ khác, Bồ-tát tu pháp nhẫn nhục thậm chí chặt đứt một cánh tay hoặc một cái chân vẫn không uất ức khó chịu” [5]
Hành giả tu nhẫn nhục phải thực hành trên ba phương diện nhẫn thân, nhẫn khẩu, và nhẫn ý
Nhẫn thân, nhẫn khẩu, với nhiều người
Ý nhẫn không sân, mọi việc vui
Đức hạnh chân tu, cầu giải thoát
Mọi người học Phật, nhẫn soi đời (Trí Giải)
Trong Phật giáo nhẫn nhục không phải là sự bi lụy, yếu đuối, hèn hạ, nhẫn là một thái độ tích cực rất sáng suốt do trí tuệ dắt dẫn, khi vấp phải những thất bại không chán nản tuyệt vọng, đạt được thành công không kiêu căng tự đắc, đó là ý nghĩa của nhẫn
“Ở đời sống đạo hãy tùy duyên
Tâm trí an vui chẳng lụy phiền
Ngoại cảnh sáu trần không dính mắc
Nội tâm bát thức hãy điềm nhiên
Niệm tưởng khởi lên liền buôn xả
Chân tâm vắng lặng thấy bình yên
Ấy là chân thật cho cuộc sống
Không bị lụy phiền cảnh đảo điên
(Trích “Bước Chân Xuất Thế”)
“Trong hạnh phúc, trong phiền lụy, lúc thăng, lúc trầm, ta phải giữ tâm như đất, cũng như trên đất ta có thể vất bất luận thứ gì, dầu chua, dầu ngọt, dầu sạch, dầu dơ, đất vẫn thản nhiên, một mực trơ trơ đất không giận, cũng không thương.”
2. Phân loại nhẫn nhục:
Nhẫn nhục: là một đức tính quan trọng của người Phật tử, tỏ rõ sức mạnh nội tâm, cũng là một trong 10 Ba-la-mật. Nhẫn có 3 loại: [6]
Sinh nhẫn (chúng sinh nhẫn) như muỗi, kiến cắn không giận, không giết hại, không sân hận với người sân hận, không chửi mắng người chửi mắng mình, còn gọi là hữu tình nhẫn
“Nhẫn, vô trước: giáp sắt,
An ổn, đi đúng pháp.
Tiến thẳng không thối lui,
Không có gì lo sợ;
Người trí ruổi chiến xa,
Dẹp kẻ thù vô trí” [7]
Đức Phật dạy: “Người tu hành theo Đạo như một người chiến đấu với vạn người. Mặc áo giáp ra cửa, tâm ý hoặc khiếp nhược, hoặc đi nửa đường thối lui, hoặc chiến đấu đến chết, hoặc đắc thắng mà về. Người Sa môn học Đạo (cũng vậy) phải có ý chí kiên cường, dũng mãnh tiến lên, không sợ cảnh tượng trước mắt (làm chướng ngại) phá tan các loài ma để đắc Đạo thành đạo quả” [8]
Pháp nhẫn: nhẫn chịu sự áp bức của thiên nhiên như nóng, lạnh, mưa nắng… còn gọi là phi tình nhẫn.
Sinh nhẫn và pháp nhẫn thuộc về đức tính kham nhẫn, trong Thiền luận của Suzuki nói rằng: “Kham nhẫn không nghĩa là chịu khuất phục trước mọi khổ đau, những khổ đau ấy tác động ở bên ngoài mang đến cho mình, nhưng nó có nghĩa là để thực hành đức tính tinh tấn (siêng năng) trong đời sống của Tánh không mà tất cả Kinh điển Đại thừa xem như là cuộc sống của Bồ-tát” (Bodhisattacariya) [9]
Vô sinh pháp nhẫn: nhẫn đạt đến cao độ trở thành đức tính tự nhiên, ra vào nghịch cảnh và thuận cảnh một cách tự tại.
Theo như Kinh-thập-địa, “đời sống vô công dụng hạnh của Bồ tát phải trải qua giai đoạn thứ bảy và tám (bát địa; bất động địa) trong đời sống tâm linh mới chứng được “Vô sanh pháp nhẫn”Anupattikadhamma Khanti” [10]
3. Sự nguy hại không kham nhẫn:
Bồ tát tu tập hạnh nhẫn nhục là để đoạn trừ tâm sân hận một trong ba căn bản phiền não luôn nhấn chìm chúng sinh trong vòng sinh tử, trong chín mươi tám kiết sử, thì tâm sân hận là loại kiết sử nguy hiểm nhất, trong các tâm bệnh, nó là thứ bệnh khó trị nhất. Kẻ sân nhuế thì không bao giờ biết thiện, ác, cũng chẳng nghĩ đến tội phước, chẳng biết tàm quý chỉ theo tâm sân hẫy hừng của mình.
Trong tác phẩm Bodhicariyāvatāra của ngài Sātideva nói rằng không có ác nào sánh kịp bằng sân si, và cũng không có gì cao quý bằng đức tính kham nhẫn:
“Thiện hành tích lũy ngàn năm,
Một giây nóng giận tiêu tan tức thì.
Ác nào sánh kịp sân si
Hạnh tu nhẫn nhục không gì quý hơn” [11]
Và trong Tăng-chi-bộ-kinh đức Phật dạy: có năm điều nguy hại cho những người không kham nhẫn:
– Quần chúng không ái mộ, không ưa thích.
– Có nhiều người hận thù.
– Nhiều người tránh né không muốn gặp.
– Lúc sắp chết tâm bị mê loạn
– Sau khi chết rơi vào Địa ngục. [12]
Thông thường, sự xung đột thường xảy ra trong mối quan hệ vợ chồng và bạn bè, nguyên nhân là do đâu? Do chúng ta mọi người không biết tu nhẫn nhục, ai cũng cố chấp để bảo vệ cái bản ngã tự cao tự đại của mình, ai cũng cho rằng mình luôn đúng và không chịu lắng nghe, nếu hai vợ chồng luôn bảo vệ cái đúng riêng cho bản thân mình thì chắc chắn sẽ tạo ra sự xung đột trong gia đình và mất đi sự hạnh phúc.
4. Sức mạnh của kham nhẫn
Trong Tăng-chi-bộ-kinh đức phật dạy về sức mạnh của lòng kham nhẫn: “ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người không nhiếc mắng lại kẻ đã nhiếc mắng, không sân hận lại kẻ đã sân hận, không gây lộn lại với kẻ đã gây lộn. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là đạo hành kham nhẫn” [13]
Dù cho gian khổ dặm đường
Sa môn kham nhẫn không vướng bụi trần
Dong ruổi góp nhặt cơn sân
Mang về vun bón chân tâm Bồ đề
Khi nào hoa quả sum sê
Hái tặng hạt giống người về ươm tâm
Trồng trên mảnh đất hồng trần
Nhổ cỏ phiền não, quả tầm Thánh nhân (Trí Giải)
Có vị Sa môn hỏi Ðức Phật rằng:
“Ðiều gì là mạnh nhất? Ðiều gì là sáng nhất?” Ðức Phật dạy: “nhẫn nhục là mạnh nhất vì không chứa ác tâm nên tăng sự an ổn. Nhẫn nhục là không ác, tất được mọi người tôn kính, tâm ô nhiễm đã được đoạn tận, không còn dấu vết gọi là sáng nhất, nghĩa là tất cả sự vật trong 10 phương, từ vô thỉ thuở chưa có trời đất cho đến ngày nay không vật gì là không thấy, không vật gì là không biết, không vật gì là không nghe, đạt được Nhất thiết trí, như vậy được gọi là sáng nhất”. [14]
Và đức Phật đưa ra tám sức mạnh như sau:
– Sức mạnh của trẻ thơ là tiếng khóc
– Sức mạnh của đàn bà là phẫn nộ
– Sức mạnh của người ăn trộm là vũ khí
– Sức mạnh của vua chúa là quyền uy
– Sức mạnh của kẻ ngu si là áp đảo
– Sức mạnh của bậc hiền trí là cảm hóa
– Sức mạnh của người đa văn là thẩm sát*
– Sức mạnh của Sa môn là nhẫn nhục [15]
5. Phương pháp thực hành nhẫn nhục ba-la-mật:
+ Dùng trí tuệ quán chiếu
Bồ-tát thường dùng trí tuệ vô lậu quán chiếu các pháp vận hành theo nguyên lý Tam pháp ấn (vô thường, khổ, vô ngã) vị ấy thấy vạn vật cùng vận hành theo luật duyên sinh, tương quan theo thuyết nhân quả, cho nên Bồ-tát vẫn thản nhiên để thành tựu Bồ đề nguyện:
Vô thường lá rụng, ở ngoài sân
Nhặt lá vàng rơi, sạch cõi trần
Phiền não trong tâm, nhặt dứt bỏ
Tâm hồn thanh tịnh, khỏi trầm luân (Trí Giải)
Khi có người làm tổn thương đến Bồ-tát, vị Bồ-tát nghĩ rằng:
“Người hại ta hôm nay, đã có gieo ân oán trong kiếp trước nào đó, vô tình hay cố ý ta đã tạo nhân oan trái với người này, đây cũng là quả để trả nhân quá khứ gieo trồng không tốt, đây cũng chính là kết quả của hành động bất thiện trong quá khứ, tại sao ta không trả nợ lại oán hờn người ta”? [16]
“Muốn tu nhẫn nhục cho thành,
Kẻ thù hợp tác với mình mới xong
Vậy bao phước đức thành công,
Hãy nên phụng hiến kẻ từng hại ta”
“Nhờ một kẻ sân si tột độ,
Nhẫn nhục thành kiên cố nơi ta
Kẻ thù nhân tốt cho ta,
Nên cung dưỡng họ như là Pháp thân [17]
Vì thế “Bồ-tát nhẫn nhục ba-la-mật là thực hành tinh tấn cả ngày đêm để thích nghi tất cả những nhu cầu ứng xử không khởi tâm phân biệt” [18]
Mỗi khi chúng ta gặp chướng duyên bị xung đột với ai, tự quán chiếu lại chính bản thân mình, lúc cơn giận nổi lên, chúng ta là phàm phu, không thể nào đủ trí tuệ để thắng cái cơn giận, khi sự việc qua rồi, mỗi đêm nằm ngủ hãy bỏ ra 10 phút quán chiếu lại, suốt quá trình trong một ngày, mình đã làm gì? Việc nào mình đã làm đúng? Việc nào mình đã làm sai. Sau khi quán chiếu từng việc như thế, việc nào mình làm đúng thì phát triển trong tương lai, việc nào không đúng phải kiểm điểm lại mình đã làm sai từ chỗ nào. Nếu mình lỡ làm người bạn nào đó buồn tự mình phải đi xin lỗi thì mọi việc sẽ bình yên, mỗi ngày sẽ trở nên hoàn thiện
Vì kẻ thù luôn giận dữ
Đã tạo ra đau khổ như thế này
Ai thắng sân hận mới hay
Sẽ tìm thấy được những ngày hạnh phúc [19]
Người Phật tử thuần thành tu pháp nhẫn nhục và khoan hồng, nếu thấy bất kỳ điều xấu của kẻ khác, hãy cố gắng tìm cái tốt đẹp trong mỗi người và sự việc để sống, vì vậy trong Kinh Trường-A-Hàm đức Phật dạy rằng:
Mọi người có tranh tụng,
Ai không tranh là thắng
Con người có hai duyên,
Vì mình cũng vì người;
Thấy người không tranh tụng,
Lại cho là ngu đần.
Nếu người có sức lớn,
Nhịn được người không sức;
Sức này là đệ nhất,
Là tối thượng trong nhẫn
Ngu tự cho mình mạnh,
Sức này chẳng là sức;
Người mạnh nhẫn như pháp,
Sức này không ngăn được [20]
+Dùng từ bi tu nhẫn nhục:
Ngoài phương pháp tu lục độ ra, Bồ-tát còn sử dụng nhiều pháp môn tu khác như Tú-vô-lượng-tâm, Tứ-nhiếp-pháp, Ngũ minh…Bồ-tát tu tập Tứ-vô-lượng-tâm:
– Tâm từ (metta) là lòng chân thật ước mong chúng sinh sống hạnh phúc trong niềm vui chân tịnh và thành tự Bồ đề.
– Bi (karuṇā) là lòng rung động trước khổ đau của người khác, tình thương vô hạn đối với chúng sinh, lòng quyết tâm cứu mọi sinh linh thoát khỏi biển sinh tử luân hồi
– Hỷ (muditā) là lòng hoan hỷ trước mọi thành công và niệm vui chung với người khác.
– Xả (upekhā) là sự nhận thức đúng đắn, sự suy luận khách quan, Bồ-tát không có luyến ái, cũng không ghét bỏ, không oán giận những kẻ đã làm hại mình
Vì thế, “những ai tiêu diệt được tâm hận thù thì người ấy được trí tuệ sáng suốt cho bản thân. Trong cuộc sống bạn không có tình thương không thể nói chuyện với người khác được” [21]
Nhẫn nhục thể hiện tâm từ
Nhẫn người một chút chữ tu hiển bày
Nhẫn nhịn mới thấy điều hay
Nhẫn bạn ta có những ngày cảm thông (Trí Giải)
Trong cuộc sống chúng ta cần tu tập nuôi dưỡng tâm từ bi mới thực hành phương pháp tu nhẫn, vì lòng từ bi sẽ giúp bạn sẽ gặt hái năm kết quả sau:
“(1) lòng từ bi từ bỏ gây tổn thương đến người khác, (2) là hạt giống cho sự giác ngộ giải thoát, (3) mang đến hạnh phúc đến cho tha nhân, và nhận khổ đau về cho mình (tinh thần Bồ-tát đạo), (4) động cơ thúc đẩy cho hạnh nguyện, (5) mang lại đặc tính từ bi cho riêng mình.” [22]
Bồ-tát luôn lấy từ bi và trí tuệ làm sự nghiệp độ sinh, nhưng pháp tu nhẫn nhục rất quan trọng vì sợ gây tổn hại đến chúng sinh, trong Kinh-phạm-vọng nói: “tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ mẹ ta, ta đời đời thọ sinh ở nơi họ”. [23]
Khi quán chiếu như thế tất cả kẻ oán người thân đều bình đẳng, Bồ-tát không có tâm phân biệt những ai có duyên đều được cứu khổ ban vui cho họ, trong Kinh Đại- bảo-tích có nói:
“Nhẫn nhục gốc thập lực
Chư Phật thần thông nguyện
Trí vô ngại đại bi
Đều lấy nhẫn làm gốc
Tứ đế, niệm, chánh cần
Căn, lực, giác đạo phần
Đều lấy nhẫn làm gốc
Người trí nên tu nhẫn
Phật tại ba la mật
Chuyển pháp luân vô thượng
Cũng lấy nhẫn làm gốc” [24]
6. Nhẫn nhục một trong sáu pháp tu Ba-la-mật
Chúng ta là hàng phàm phu trên bước đường tu tập, thực hành lục độ ba la mật bao gồm: Bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định và trí tuệ
Bố thí có hai, vật chất và tinh thần, Bố thí vật chất được giàu sang, đó là làm việc lợi tha, bố thí pháp dẫn dắt chúng sinh vào đạo tu hành quả được trí tuệ.
Do trì giới thoát khỏi ba đường ác, được sinh vào cõi người hay cõi trời tôn quý. Do tu nhẫn nhục nên ngăn được tâm nóng giận, thân tướng được trang nghiêm, oai đức đầy đủ, không có hận thù ai nấy đều quý mến và kính phục và dễ dàng cảm hóa chúng sinh.
Do tinh tấn giúp cho hành giả đoạn trừ tâm giải đãi, để hoàn thành tâm nguyện về Bảo sở và hoằng pháp độ sinh.
Do tu thiền định tâm không còn não loạn, vọng tưởng, xa lìa các vui ngũ dục của thế gian, thiền định giúp tâm bình tránh xa mọi xung đột, gây tổn hại đến người khác trong cuộc sống.
Do tu thiền định vọng tưởng, phiền não chấm dứt, trí tuệ bát nhã hiển bày để diệt trừ vô minh, mây ta thì mặt trăng hiển bày chiếu sáng khắp thế gian.
7. Kết luận:
Nói thì dễ lắm, nhưng khi chúng ta thực hành tu nhẫn nhục rất là khó, hằng ngày chúng ta luôn ôm chấp cái ngã của mình, để rồi tham lam, ích kỷ, giận hờn, ganh tỵ, lúc nào cũng cho mình hơn người, những thứ này như đao 刀 (phiền não) nằm trong tâm 心. Đây chính là nguyên nhân ngăn cản chúng ta tu nhẫn nhục.
Từ trước đến nay chúng ta sống sai lầm tạo biết bao nhiêu thù hận, sân si,…ngày hôm nay cố gắng tu thực hành thiền định, tụng kinh, niệm Phật để tâm hồn thanh tịnh trí tuệ phát sinh, khi có trí tuệ bát-nhã rồi thì chúng ta sẽ làm chủ 丶được con đao trong tâm, nghĩa là không chấp 刃 (nhận) những thứ phiền não đó trong tâm, thì chỉ còn lại một chân tâm thanh tịnh, 心 an lạc giải thoát. Tức là chữ nhẫn 忍-刃=心 (nhẫn không nhận phiền não = chân tâm), thì chân tâm này là tâm Phật, tâm của Bồ-tát, tâm của bậc Hiền trí.
Trí Giải
Chú thích:
[1] Thiều Chửu, Hán-Việt tự điển,
[2] Xem H. Dayal, The Bodhisattva Doctrine in Buddhist Sanskrit Literature, Motilal Banarsidass Publishers, 2004. P. 209 và xem: G. S. P. Misra, Development of Buddhist Ethics, Mushiram Manoharlal Publisher1984 pp.137-138.
[3] Aṅguttāra Nikāya Tăng Chi Bộ Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt Chương II – Hai Pháp, XV. Phẩm Nhập Ðịnh
[4] H. Dayal, op.cit., 2004. P. 209
[5] Narada, The Buddha and His Teachings, Buddhist Missionary Society Malaysia, 1988 p. 599.
[6] “(1) forbearance of pain (duḥkhādhivāsana-kṣānti)
(2) forbearance of seeing the Doctrince (dharmaidhyāna-kṣānti)
(3)forbearance of injuries and insults (parāpakāra-marṣaṇo-kṣānti)” xem G. S. P. Misra, Development of Buddhist Ethics,Mushiram Manoharlal Publisher1984 p.138
[7] 無著忍辱鎧 安隱如法行 直進不退還 永之無憂處智士乘戰車 摧伏無智怨, T2n99 trang 201a06-08 xem Tạp A-Hàm Thích Đức Thắng, Việt dịch chương V. Đạo Phẩm phần Tương ưng thánh đạo, Kinh Bà-la-môn.
[8] Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Thích Viên Giác dịch giảng nghĩa chuong 33.
[9] D.T. Suzuki, Essays in Zen Buddhism second Series, C. Humphreys (ed) Mushiram Manoharlal Publisher 2008 p. 313.
[10] D.T. Suzuki, op.cit., p. 335. Và xem: Sangarakshita, A Survey of Buddhism Motilal Bannarsidass Publishers 2006. P. 483
[11] The Bodhicaryāvatāra of the Boddhist poest Śātideva, Entering the Path of Enlightenment, M. L. Matics (tr.) London Geoge Allen & Unwin Publish 1970. P.173. Việt dịch:Thích Nữ Trí Hải.
[12] Aṅguttāra NikāyaTăng Chi Bộ Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt Chương chương V phẩm không kham nhẫn.
[13] Tiếp theo Chương IV – Bốn Pháp (IV) (164) Kham Nhẫn
[14] Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Thích Viên Giác dịch Việt chương XV
[15] Aṅguttāra Nikāya III, Tăng Chi Bộ Kinh III, Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt Chương Tám Pháp, phẩm Gia chủ, Kinh Sức Mạnh (1), trang 587.
[16] Narada, The Buddha and His Teachings, Buddhist Missionary Society Malaysia, 1988 p. 600
[17]The Bodhicaryāvatāra of the Boddhist poest Śātideva, Entering the Path of Enlightenment, M. L. Matics (tr.) London Geoge Allen & Unwin Publish 1970. pp. 173-174. Việt dịch: Thích Nữ Trí Hải.
[18] D.T. Suzuki, Studies in the Laṅkavatāra Sūtra, Mushiram Manoharlal Publisher 2007, pp 366-367.
[19]The Dalai Lama Healing, Anger The Power of Patience from a Buddhist Perspective, G. T. Jinpa (Tr.) Motilal Banarsidass Publisher 2007. P. 17 (Trí Giải dịch ra thơ)
[20]衆人諍有訟 不報者爲勝,
夫人有二縁 爲己亦爲他
見無諍訟者 乃謂爲愚騃
若人有大力 能忍無力者
此力爲第一 於忍中最上
愚自謂有力 此力非爲力
如法忍力者 此力不可沮 xem 長 阿 含 經 T1n1 trang142a01-07 xem: Kinh Trường A-Hàm phần Thích Phước Thắng Việt dịch IV phẩm 10: Chiến Đấu
[21] G.M.Nagao, “The Bodhisattva’s compassion Described in the Mahāyāna-Sūtrālṁkāra”, J. Silk (ed) Buddhist Studies The Legacy of Gandjin M. Nagao Motilal Banarsidass publishers 2008 p.18.
[22] Tiếp theo trang 9.
[23] Kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới HT Thích Trí Quang Việt dịch giới 20
[24] Kinh Đại Bảo Tích, HT Thích Trí Tịnh Việt dịch VI. Tr. 71.
* Thẩm sát: nghĩa là bậc Thanh văn có trí tuệ, có chánh kiến quán sát mọi sự việc một cách sâu sắc, thấu rõ được bản chất của nó, không rơi vào tà kiến.
=======================================================
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN
Thích Nguyên Ngôn dịch
Phẩm Thứ Sáu Nhẫn nhục Ba La Mật
Luận nói: Bồ Tát phải tu Pháp Nhẫn Nhục như thế nào? Và làm thế nào cho Pháp Nhẫn Nhục được kết quả tự lợi, lợi tha và cả hai đều lợi ích viên mãn?
Hàng Bồ Tát tu Pháp Nhẫn Nhục đúng pháp thì có khả năng trang nghiêm Đạo Bồ đề: Bồ Tát vì muốn điều phục chúng sanh, khiến họ xa lìa khổ não, cho nên phải tu Pháp Nhẫn Nhục.
Người tu Pháp Nhẫn Nhục, thì tám thường khiêm hạ, đối với tất cả chúng sanh có tâm cang cường, kiêu mạn, thì mình phải hỉ xả không chấp trách. Lại khi thấy người bị nguy ác, thì phải khởi tâm thương xót giúp đỡ, ngôn ngữ phải nhu nhuyễn, để khuyến hóa người tu thiện pháp. Khéo léo phân biệt giải thích quả báo sai biệt của tâm sân nhuế, và luôn ôn hòa Nhẫn nhục (hòa nhẫn), đó là bước đầu của hàng Bồ Tát phát tâm tu Pháp Nhẫn Nhục. Tu hành Pháp Nhẫn Nhục, thì được tránh khỏi những điều xấu ác, thân tâm được an lạc đó gọi là tự lợi vậy.
Lại hay hoá đạo chúng sanh, khiến cho họ thảy đều hòa thuận, đó gọi là lợi tha vậy.
Do chỗ tu Pháp Vô Thượng Nhẫn Nhục, nên giáo hóa các chúng sanh, khiến cho họ đồng lợi ích như mình, cho nên gọi là cả hai đều ích lợi vậy. Do chánh nhơn tu Nhẫn Nhục, nên được kết quả đoan chánh, khiến cho mọi người đều cung kính, cho đến
khi thành Phật có các tướng hảo thượng diệu. Đó gọi là thành tựu trang nghiêm Đạo Bồ đề vậy.
Nhẫn nhục có ba trường hợp :
Gọi đó là: THÂN NHẪN – KHẨU NHẫN và Ý NHẪN.
1/ Thế nào gọi là THÂN NHẪN ?
Nghĩa là có kẻ đến mắng chửi, hay đánh đập hủy báng, ác tâm với ta, cho đến đả thương làm đau đớn, ta cũng phải nhẫn thọ cảnh khổ đau ấy. Lại nữa, khi ta thấy các chúng sanh bi uy bức, sợ hãi, ta phải đem thân mà gánh vác cho họ, nhưng lòng không mỏi mệt thối chí, trường hợp làm được như vậy, gọi là Thân Nhẫn Nhục .
2/ Thế nào gọi là KHẨU NHẪN ?
Nếu có người mạ lỵ ta, ta phải mặc nhiên nhẫn thọ, không mắng trả lại lại có kẻ rất là phi lý đến quở trách ta, ta cũng phải tỏ lời ôn hòa, mà thuận ghi nhớ lời (tỏ lời ôn hòa mà đối xử với họ). Nếu có kẻ to lời lớn tiếng chửi rủa phỉ báng ta, ta cũng phải nhẫn thọ. Sự kiện như vậy gọi là tu Khẩu Nhẫn Nhục.
3/ Thế nào gọi là ý NHẪN?
Nếu thấy có kẻ sân hận với ta, lòng ta cũng không ghi nhớ, luôn tránh xa họ. Nếu có kẻ gây sự xúc não, ta cũng phải giữ tâm thanh tịnh chớ dao loạn, nếu có kẻ dùng lời lẽ hủy báng, lòng ta cũng không oán trách. Những sự kiện như vậy gọi là tu Pháp ý Nhẫn Nhục.
Ở thế gian, đánh đập nhau có hai trường hợp,một là sự thật, hai là ngang ngạnh, ẩu xử. Nếu là có lỗi lầm, có người hiềm nghi, vì lẻ đó mà ẩu đả ta, ta phải nhẫn nhục. xem như được uống vị cam lồ? và đối với nguời kia ta còn khởi tâm cung kính.
Vì sao? Vì đó là một sự khéo léo điều phục và giáo huấn ta, khiến ta xa lìa các điều tội lỗi. Nếu có kẻ ỷ quyền cậy thế ngang tàng ẩu đả; làm ta xấu hổ (bỉ mặt), cho đến bị thương tích, thì ta phải suy nghĩ: Ngày nay ta không lỗi lầm nhưng biết đâu quá khứ túc nghiệp sai lầm, nay phải lãnh thọ, cho nên phải Nhẫn thọ vậy.
Vả lại, ta phải tư duy thân tứ đại giả hợp, ngũ ấm duyên hội mà có, thì ai là người bị đánh (hay ai đánh ai?). Rồi lại quan sát: người trước mặt ta, biết đâu không lại là kẻ si cuồng, thì ta oán trách họ làm gì? Cho nên ta phải nhẫn thọ vậy! Lại nữa, kẻ mắng chửi cũng có hai loại: một là thật, hai là hư (giả).
Nếu những lời người kia là thật, thì ta phải khởi tâm tàm quý (ăn năn). Nếu những lời người kia hư ngụy, thì việc đó ta vô can dự, khác nào âm vang gió thổi qua tai, không làm hại ta được. Vì vậy nên phải tu Pháp Nhẫn Nhục.
Lại nữa, sự sân hận cũng như vậy. Nếu có người vô cớ đến sân hận với ta, thì ta phải nhẫn thọ. Nếu ta khởi sân hận với họ, tất đời sau sẽ bị đọa vào ác đạo thọ đại khổ não. Do nhơn duyên như vậy, thân ta dù có bị sự ác tâm của người chẽ chặt phân ly, cũng không nên khởi tâm sân hận, rnà cần phải quán sát sâu xa về NGHIỆP LỰC, NHƠN DUYÊN ở đời trước. Cần phải tu tập TÂM TỪ BI, thường lân mẫn tất cả, nếu cảnh khổ nhỏ mà ta không nhẫn thọ được thì làm sao có thể tự điều phục được
TÂM ta ? Và làm sao có thể điều phục được TÂM CHÚNG SANH? – Khiến cho họ được giải thoát tất cả ác pháp, thành tựu Vô thượng quả. Cho nên, là NGƯỜI TRÍ, tất phải vui vẻ Tu Pháp Nhẫn Nhục, thì người tu hạnh này được dung mạo đoan chánh, lại được rất nhiều tài bảo, khiến cho mọi người trông thấy đều hoan hỷ, kính ngưỡng phục tùng.
Lại phải quan sát, nếu thấy có kẻ hình hài, nhan sắc xấu xa các căn không đủ, thiếu thốn tài vật (cuộc sống nghèo khổ), thì phải biết rằng, đều do nhơn sân hận nên như vậy. Do nhơn duyên đó, NGƯỜI TRÍ cần phải Tu Pháp Nhẫn Nhục thâm thiết vậy.
Pháp sanh nhẫn nhơn duyên có 10 môn:
1/ Không quán sát (cố chấp) ngã và ngã sở.
2/ Không phân biệt, ghi nhớ tộc họ.
3/ Phá trừ tánh kiêu mạn.
4/ Đối với sự ác xấu, không cần báo trả.
5/ Quán sát rõ ràng tướng vô thường.
6/ Tu tập Tâm từ bi.
7/ Giữ tâm không phóng dật.
8/ Xa lìa sự cơ khát, khổ, lạc v.v…
9/ Đoạn trừ sân nhuế.
10/ Tu tập trí huệ.
Nếu người thành tựu 10 pháp như trên, thì người đó thành tựu Pháp Nhẫn Nhục vậy.
Hàng Bồ Tát Mahatát, khi tu tập Nhẫn thanh tịnh rốt ráo, tất vào được Pháp KHÔNG, VÔ TƯỚNG, VÔ NGUYỆN, VÔ TÁT (Tức chứng đắc các pháp ấy), không cùng với Kiến , Giác, Nguyện, Tát mà hòa hợp, cũng không đắm trước (cố chấp) nơi PHÁP KHÔNG, VÔ TƯỚNG, VÔ NGUYỆN, VÔ TÁC, cho nên các Kiến Giác, Nguyện , Tác đều là KHÔNG (đều dứt hết).
Như vậy, Nhẫn Nhục không có hai tướng (vô nhị tướng), cho nên gọi là THANH TỊNH TẤT CÁNH NHẪN.
Nếu đã chứng nhập Nhơn trí, và diệt hết kiết sử, nếu vào cảnh tịch-diệt, cũng không cùng tận sanh tử mà hòa hợp, cũng không ỷ lại chỗ Tận kiết tịch diệt , đối với các sự sanh tử đều là KHÔNG. Pháp Nhẫn như vậy, gọi là Pháp vô nhị tướng, cũng gọi là Thanh Tịnh Tất Cánh Nhẫn vậy.
Lại nữa, TÁNH bất tự sanh, bất tùng tha sanh, bất hòa hợp sanh, lại cũng không từ đâu đến và cũng không thể phá hoại. Vì Bất khả hoại, nên gọi là Bất khả tận: Như vậy Pháp Nhẫn ấy là Pháp vô nhị tướng. Cho nên gọi là “Thanh tịnh tất cảnh nhẫn” vậy.
Lại nữa, “không làm, chẳng phải chẳng làm”, không chỗ nương tựa, không phân biệt, không trang nghiêm. không tu trị (sửa chữa) không tới lui (tấn phát) v.v… trọn chẳng tạo sanh. Pháp Nhẫn như vậy gọi là Đắc Pháp Vô Sanh Nhẫn.
Do đó, khi Bồ Tát tu hành Pháp Nhẫn này, thì đắc Thọ ký Nhẫn. Hàng Bồ Tát, Mahatát tu hành Pháp Nhẫn Nhục này, thành tựu Tánh Tướng Tận Không, không có chúng sanh v.v… Cho nên trọn đủ (viên mãn) Nhẫn Nhục Ba La Mật vậy.
=======================================================
Tại Gia Bồ Tát Giới Kinh
(Ưu Bà Tắc Giới Kinh)
優婆塞戒經
Tam Tạng Pháp Sư Đàm Vô Sấm dịch Phạn Hán
Thích Tịnh Nghiêm dịch Hán Việt
Phẩm Hai Mươi Lăm
Nhẫn Nhục Ba La Mật
Thiện Sinh bạch Phật: “Kính bạch Đức Thế Tôn! Đức Phật trước đây đã nói về pháp Bố thí và Trì giới Ba la mật. Bồ tát làm thế nào để tu Nhẫn nhục Ba la mật?
Đức Phật nói: “Thiện nam tử! Nhẫn nhục có hai loại: (1) nhẫn nhục thế gian, (2) nhẫn nhục xuất thế gian.
Nếu như có thể nhẫn chịu sự đói khát, lạnh nóng, khổ vui, đây gọi là nhẫn nhục thế gian. Nếu như có thể nhẫn thọ: tín, giới, thí, nghe pháp, trí huệ, chánh kiến không sai lầm, nhẫn thọ Phật, pháp, tăng, nhẫn thọ sự nhục mạ, đánh đập, chửi rủa, việc ác, tham, sân, si, v.v…, tất cả đều có thể nhẫn thọ. Có thể nhẫn những việc khó nhẫn, có thể làm những việc khó làm, đây gọi là nhẫn nhục xuất thế gian.
Thiện nam tử! Bồ tát nếu gặp người khác đánh mắng, khinh miệt, hủy nhục, chửi rủa, lúc ấy, trong lòng không khởi tâm niệm báo thù. Bồ tát thực hành hạnh nhẫn nhục, không cầu quả báo hiện đời, mà cầu sự lợi ích đời vị lai. Nếu được đối xử tốt đẹp, Bồ tát tìm cách báo đáp. Nếu ai làm hại, Bồ tát cam tâm nhẫn chịu.
Thiện nam tử! Có nhẫn nhục mà không phải Ba la mật, có Ba la mật mà không phải nhẫn nhục, có nhẫn nhục mà vừa là Ba la mật, có vừa không phải nhẫn nhục vừa không phải Ba la mật.
Nhẫn nhục mà không phải Ba la mật, chẳng hạn như sự nhẫn nhục của thế gian, của Thanh văn, Duyên giác; Ba la mật mà không phải nhẫn nhục, chẳng hạn như Thiền Ba la mật; nhẫn nhục mà vừa là Ba la mật, chẳng hạn như bị kẻ khác chặt tay chân, móc mắt, chặt đầu, mà vẫn không khởi một niệm sân hận, hoặc là Bố thí Ba la mật, Trì giới Ba la mật và Bát nhã Ba la mật; vừa không phải nhẫn nhục vừa không phải Ba la mật, chẳng hạn như sự trì giới, bố thí của hàng Thanh văn, Duyên giác.
Thiện nam tử! Nếu muốn tu nhẫn nhục, trước tiên phải diệt trừ tâm kiêu mạn, tâm sân hận, tâm si mê, không chấp tướng ngã, ngã sở, và tướng thường hằng của chủng tính. Nếu có thể quán sát như vậy, nên biết người đó có thể tu nhẫn nhục. Tu tập nhẫn nhục như vậy, tâm sẽ vui mừng. Người trí khi bị chửi rủa ác độc, nên nghĩ như vầy: “Những lời chửi rủa đó, không phải phát ra cùng một lúc. Lúc lời chửi trước được phát ra, lời chửi sau chưa có; lúc lời chửi sau được phát ra, lời chửi trước đã không còn. Nếu như những lời chửi rủa không hiện hữu cùng lúc, như vậy sự chửi rủa là vật gì? Chỉ là tiếng gió, tại sao ta phải giận dữ? Thân hiện nay của ta chỉ là sự hòa hợp của ngũ ấm. Bốn ấm kia không thấy được, không thể chửi rủa chúng được. Còn sắc ấm do mười phần[32] hòa hợp mà thành. Nhưng sự hòa hợp này, niệm niệm đều khác nhau. Nếu có sự khác biệt, ai là người bị chửi rủa? Hơn nữa, sự nhục mạ đó, chỉ là tiếng gió. Gió có hai loại: (1) ở ngoài, (2) ở trong. Đối với tiếng gió ở ngoài, ta đều không sinh tâm giận dữ, tại sao ta lại sinh tâm giận dữ với tiếng gió ở trong? Lời chửi rủa thế gian cũng có hai loại, một là đúng sự thực, hai là không đúng sự thực. Nếu như đúng sự thực, thì còn sân nỗi gì? Còn nếu không đúng sự thực, người chửi rủa sẽ bị người khác quở trách, đâu can dự gì đến ta, mà ta phải giận dữ. Nếu ta giận dữ, đó là tự làm ác. Vì sao? Vì giận dữ mà đọa lạc ba đường ác. Nếu như ta phải chịu khổ trong ba đường ác, tức là tự làm tự chịu khổ báo, cho nên nói tất cả thiện ác đều do thân mình tạo ra.
Thiện nam tử! Có năm điều kiện để tu nhẫn nhục: (1) không trả thù người làm ác đối với mình, (2) quán sát sự vô thường, (3) tu tập từ bi, (4) tâm không buông lung, (5) đoạn trừ tâm giận dữ.
Thiện nam tử! Người nào thành tựu năm điều kiện này, nên biết người đó có thể tu hạnh nhẫn nhục. Người nào ăn nói nhỏ nhẹ, làm thanh tịnh nghiệp thân và miệng, ôn hòa nhã nhặn, hỏi han chào đón, có thể quán sát tất cả nhân duyên khổ vui, nên biết người ấy có thể tu hạnh nhẫn nhục.
Người nào có thể tu “không tam muội”, quán sát chúng sinh đều là vô thường, nhận chịu sự khổ não, v.v…, lúc bị nhục mạ, có thể quán người nhục mạ giống như người cuồng, người si, trẻ con, đần độn, nên biết người đó có thể tu hạnh nhẫn nhục.
Người trí nên quán sát rằng nếu người hơn ta chửi rủa, ta không nên giận dữ. Vì sao? Vì nếu ta sân, người đó có thể giết ta. Nếu người thua ta chửi rủa, ta cũng không nên báo thù. Vì sao? Không phải là người ngang hàng, nếu như báo thù, chỉ là tự làm nhục mình.
Ví như có người trao thuốc độc cho người khác, không ai trách hắn, nếu như hắn tự uống thuốc độc, ắt sẽ có người cười chê. Ta cũng như vậy. Nếu như giận dỗi người chửi rủa, ta sẽ chịu khổ não trong đời vị lai, tất cả hiền thánh sẽ quở trách ta. Do nhân duyên này, thân ta dù bị cắt xẻ từng phần, cũng không nên sinh lòng giận dữ. Phải nên quán sát sâu xa nhân duyên của nghiệp đời quá khứ, nên tu từ bi thương xót tất cả. Nếu như không thể nhẫn chịu việc nhỏ, ta làm sao có thể điều phục chúng sinh. Nhẫn nhục là chánh nhân của Bồ đề. A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề, tức là quả của sự nhẫn nhục. Nếu ta không trồng hạt giống nhẫn nhục như vậy, làm sao có thể thu hoạch chánh quả.
Thiện nam tử! Nếu như người trí ưa tu nhẫn nhục, người ấy thường được dáng điệu ôn hòa, tính tình vui vẻ, mọi người thấy mặt đều hoan hỷ, chiêm ngưỡng không chán; đối với người chịu giáo hóa, tâm không tham đắm. Người trí thấy kẻ oán thù đến gây sự, nên phát nguyện như sau: “Nguyện cho người oán thù này, trong đời vị lai sẽ thành cha mẹ, anh em, thân thuộc của ta, không còn giận ghét, oán hờn ta nữa. Những người thân hình tàn khuyết, diện mạo xấu xa, các giác quan không đầy đủ, thiếu thốn của cải, nên biết đều từ nhân duyên giận dữ mà bị quả báo, hiện nay sao ta lại không chịu tu nhẫn nhục.” Do nhân duyên này, người trí phải nên siêng tu hạnh nhẫn nhục.
Thiện nam tử! Lúc Bồ tát Ma ha tát tu hạnh nhẫn nhục, thường hay quán sát tội lỗi của sinh tử, ưa tu pháp hạnh, siêng năng đọc tụng, biên chép kinh điển của Như Lai, cúng dường sư trưởng cùng những bậc đức hạnh, chăm sóc người bệnh khổ, tu tập hạnh từ bi, thương xót tất cả chúng sinh, giúp người khác thoát ly khổ não. Thường ưa xuất gia, nhẫn đến trọn đời trì giới, tinh tiến, thu nhiếp sáu căn, không cho phát khởi nhân duyên phiền não, chẳng thà mất thân mạng, quyết không phá giới. Ưa lo lắng công việc cho người khác, thường có lòng hổ thẹn, ưa khen ngợi sự nhẫn nhục. Vì muốn điều phục chúng sinh, nên nhẫn chịu nhiều sự khổ sở; đối với kẻ oán còn có thể nhẫn nhịn, huống là người thân. Có thể nhẫn hai loại giận: một là giận loài hữu tình, hai là giận loài vô tình. Hy sinh sự vui của mình, để mọi người khác được vui. Không tưởng nghĩ đến người đem nhiều khổ đau đến cho mình, mà thường hay tưởng nghĩ đến người đem an vui cho mình dù rất ít. Xa lìa lời đâm thọc, không bao giờ nói khuyết điểm của người khác. Chỉ khuyên nhắc mọi người xa lìa phiền não, không bao giờ nói những điều mà người khác không thích nghe. Thanh tịnh các nghiệp thân khẩu ý, dứt trừ tất cả tội chướng. Nếu vì nhân duyên phiền não mà tạo tội, liền sinh lòng hổ thẹn, hối hận.
Thiện nam tử! Bồ tát có hai hạng: một là tại gia, hai là xuất gia. Bồ tát xuất gia tu hạnh nhẫn nhục, điều này không khó. Bồ tát tại gia tu hạnh nhẫn nhục, điều này mới khó. Vì sao? Vì người tại gia bị nhiều ác duyên ràng buộc.
=======================================================
Le 3e paramita concerne la patience, l’acceptation, le pardon, de détachement et le support des actions venant de nous et de l’environnement. Ce n’est pas les accepter ou les supporter pour créer de la honte (hổ thẹn) ou le déshonneur, c’est au contraire supporter les actions de honte ou de déshonneur. Contraire de la colère, de l’agressivité ou de la nervosité intérieure ou/et extérieure, amour propre. Pratiquer avec sagesse.
Supporter pour les autres.
Aimer dans l’égoisme -> haine.
Remède :
- agir pour les autres par compassion et amour
- Comprendre la loi du karma.
- se considérer comme de la poussière (vision éveillée)
- s’insulter dans la méditation
Sous 3 types : corps (Maladies, le contact physique), la parole (les insultes, les mauvaises paroles) et l’esprit (le caractère, les mauvaises pensées): le mépris des autres, les remarques, renommée, flatter bassement (flagorner), oppression (ăn hiếp) etc …
Innocence, naiveté, têtu
Sous 3 formes :
selon le karma: le karma engendre le karma à cause de l’ignorance, une vengeance à la vie
L’agitation du mentale est souvent ouverte à la confrontation.
La faiblesse, la peur et l’angoisse (non action) exemple des maris vis à vis de leur femme (cause non création des mérites) : contraire à la colère (action)
Histoires :
- 1 des 60 disciples de Bouđha
- Maitre Bặc Ẩn: grand méditant-> berger des vaches->femme enceinte -> exemple représentatif de cette qualités
- Un moine et son oiseau
- Une des vies du bouđha en tant que méditant et de pratique de ce paramita dans la forêt
- Ananda avec le bouđha : les insultes d’une reine et de son royaume
- Une des vies de bouđha : un roi Ca Lợi bon, compassionné et généreux. Rencontre avec un brahmane. kondana = l’autre roi
Citation: Le meilleur des combattants, ce n’est pas celui qui a gagné toutes les guerres du monde mais c’est celui qui a gagné sa propre guerre.